Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã quy định gắn quyền con người với quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là một “phát triển mới cả về quan điểm và kỹ thuật lập pháp”.
Quy định này đã thể hiện: Nhà nước bảo hộ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, nhưng trước hết và trên hết, đó là quyền con người, mọi người luôn có quyền sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc…
Những quy định trong Chương II của Dự thảo đã thể hiện sự tương thích các quy định của Hiến pháp với pháp luật của cộng đồng quốc tế trong bối cảnh hội nhập và phát triển ngày nay.
Tuy nhiên, với ý nghĩa như là lời tuyên ngôn, là các nguyên tắc cơ bản, nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo cho cả hệ thống pháp luật thì vấn đề bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ trong các quan hệ hôn nhân và gia đình của Dự thảo còn khá mờ nhạt.
![]() |
Nguyên tắc nam nữ bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong các quan hệ hôn nhân và gia đình cần phải được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp - Ảnh minh họa |
Cần ghi nhận cụ thể quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử
Điều 39 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định: “1. Nam, nữ có quyền kết hôn và ly hôn theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.”
Rõ ràng quy định này chưa bao quát được vấn đề Nhà nước bảo hộ chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam. Đặc biệt là quyền bình đẳng giữa nam và nữ, nguyên tắc không phân biệt đối xử với phụ nữ trong các quan hệ hôn nhân và gia đình.
Theo quan điểm của cá nhân người viết, quyền bình đẳng không bị phân biệt đối xử của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình thực sự cần phải được xem xét và xác định.
Đó chính là quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử của phụ nữ trong kết hôn, ly hôn, tìm việc làm, sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi, tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội; quyền được làm việc, tiếp cận các dịch vụ cần có, tiếp cận các biện pháp dự phòng lây nhiễm bệnh để đảm bảo an toàn sức khỏe…
Có thể nhận thấy rằng các quy định thể hiện sự bình đẳng không bị phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình, trong hệ thống pháp luật Việt Nam là tương đối đầy đủ và thể hiện được sự ưu đãi của nhà nước đối với nhóm chủ thể dễ bị tổn thương.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây không phải là sự bất bình đẳng, sự phân biệt đối xử xuất phát từ hệ thống pháp luật mà nó bắt nguồn từ chính trong nhận thức, trong tư duy, tư tưởng, trong quan niệm của cộng đồng xã hội.
Vậy nên, với tư cách là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, nguyên tắc nam nữ bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong các quan hệ hôn nhân và gia đình cần phải được ghi nhận cụ thể trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Khẳng định vai trò quan trọng của gia đình đối với xã hội
Ở lĩnh vực hôn nhân và gia đình, các quan hệ nhân thân và tài sản giữa các thành viên trong gia đình được điều chỉnh thông qua hệ thống các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình được dự liệu trong nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước ban hành như Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Dân sự, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,… mà các quy phạm pháp luật này đều xuất phát từ chế độ hôn nhân và gia đình được ghi nhận trong Hiến pháp.
Hiến pháp của các Nhà nước trên thế giới luôn ghi nhận và khẳng định như là lời tuyên ngôn: Gia đình là nền tảng của xã hội. Vậy mà, Điều 39 Dự thảo đã “bỏ quên”, chưa khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với xã hội.
Các quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về Chế độ hôn nhân và gia đình phải là cơ sở, là những nguyên tắc cơ bản, là cái “gốc” cho việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các văn bản pháp luật mới nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình ở nước ta hiện nay.
Từ những lập luận trên, chúng tôi cho rằng: Nội dung Điều 39 Dự thảo phải được “thiết kế” theo hướng bao quát được đầy đủ về chế độ hôn nhân và gia đình; khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Như vậy, Điều 39 có thể được dự liệu với nội dung như sau:
“1. Gia đình là tế bào của xã hội.
2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.
3. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
4. Cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con trở thành công dân tốt. Con, cháu có bổn phận kính yêu, chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ, ông bà.
5. Nghiêm cấm việc phân biệt đối xử với phụ nữ và các con”.
TS. Nguyễn Văn Cừ
Trường Đại học Luật Hà Nội