• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Hướng đến sử dụng tài nguyên bền vững

Thế giới đang tiến gần đến giới hạn của sự tăng trưởng do cạn kiệt tài nguyên. Vì vậy, cần thay đổi cách thức tiêu dùng, sử dụng tài nguyên theo hướng bền vững.

14/01/2011 15:54

Khai thác, sử dụng chưa bền vững

Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc, dầu mỏ có thể khai thác được 75 năm nữa, khí tự nhiên có thể duy trì 56 năm nữa. Trữ lượng than chưa khai thác cũng chỉ đủ trong khoảng 180 năm nữa. Cùng với sự phát triển và mức sinh hoạt tăng cao, lượng nước dùng mỗi năm tăng 5%, cứ sau 15 năm lại tăng gấp đôi làm cho nguồn nước có nguy cơ giảm.

Khoáng sản là nguồn lực quan trọng, đầu vào của sản xuất công nghiệp, hiện chiếm 4-5 % GDP công nghiệp. Tuy nhiên, nguồn lực này đang bị khai thác và sử dụng lãng phí, chưa thực sự bền vững. Tại Việt Nam, tỉ lệ thất thoát tài nguyên trong khai thác khoáng sản của Việt Nam rất cao trung bình 40-50% đối với khoáng sản rắn, trên 60% đối với dầu khí. Bên cạnh đó là hậu quả ô nhiễm nguồn nước do sử dụng hóa chất trong khai thác, đổ chất thải bừa bãi, thay đổi hệ sinh thái khu vực do phá rừng, gây xói lở đất.

Việt Nam chưa có một chiến lược quản lí và sử dụng nguồn tài nguyên nước vững bền gây nguy cơ khan hiếm và kiệt cạn nguồn nước ảnh hưởng đến công nghiệp. Hơn nữa nguy cơ tiềm tàng còn xuất phát từ 2/3 lưu vực các sông Việt Nam đều do các nước lân cận kiểm soát. Sự phát triển mang tính cục bộ của từng nước, thiếu một cơ chế điều tiết hiệu quả là sự tham gia của các nước nằm ở thượng nguồn có ảnh hưởng trực tiếp tới cân bằng nước Việt Nam. Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm trở thành thách thức rất lớn trong chiến lược sử dụng hợp lí tài nguyên.

Chưa phát huy hết nguồn lực của đất đai

Đất đai là đầu vào quan trọng của mọi quá trình sản xuất. Tuy nhiên việc sử dụng đất cho công nghiệp đang có nhiều bất cập thiếu bền vững. Công nghiệp Việt Nam do phân bố chưa hợp lý, yếu kém trong quy hoạch và chạy theo thành tích đang làm mất đi các diện tích đất châu thổ quý giá ở 2 vựa lúa chính của cả nước. Trong khi đó, các vùng đất thích hợp hơn cho công nghiệp đã không được tận dụng, thậm chí ngay trong phạm vi một địa phương. Nhiều khu, cụm công nghiệp ra đời hàng chục năm nhưng đến nay tỉ lệ lấp đầy không quá 39-40%, hậu quả để lại hàng chục ngàn ha hoang hóa không sử dụng. Để phục vụ mục tiêu công nghiệp, nhiều địa phương thu hồi đất canh tác 2-3 vụ lúa, nơi chỗ dựa sinh sống của nhiều vạn hộ dân, đẩy họ đến chỗ thất nghiệp, tạo ra các xáo trộn xã hội sâu sắc.

Đất đai là nguồn lực tự nhiên, phân bố không đồng đều, có những địa phương thuận lợi cho công nghiệp, song cũng có những địa phương chỉ thích hợp với canh tác nông nghiệp, do điều kiện tự nhiên khác nhau. Song bất cập ở chỗ, các địa phương đặt ra chỉ tiêu phát triển giống nhau, thậm chí cạnh tranh nhau trong việc thu hút đầu tư côngnghiệp dẫn đến mất đất hoặc không tận dụng, chia sẻ được các nguồn lực đất đai dành cho công nghiệp. Vùng đồng bằng sông Cửu Long với đặc trưng hệ sinh thái ngập nước, song do những phân bố côngnghiệp thiếu chọn lọc nguy cơ lan truyền ô nhiễm đe dọa mất đi hệ sinh thái của khu vực rất lớn.

Trên lý thuyết, việc phát triển các khu công nghiệp và khu chế xuất có thể mang lại rất nhiều lợi ích, gắn phát triển với bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, chính sách đó đang bị chi phối bởi các nhà đầu tư, tính địa phương và cả quá trình điều tiết vĩ mô kém hiệu quả. Kết quả, phát triển KCN trên thực tế trở thành điểm nóng ô nhiễm, nguồn phát sinh chất thải chính tại nhiều địa phương. Nhiều diện tích đất của KCN, đã bị biến đổi, ô nhiễm trong quá trình sử dụng khó có khả năng phục hồi.

Một nguyên nhân nữa đang làm trầm trọng thêm vấn đề tiêu dùng đất đai, đó là nhận thức chưa đầy đủ về giá trị thật của đất nông nghiệp. Một giá trị gắn kết với hệ sinh thái nhưng mới chỉ được định giá về sản phẩm nông nghiệp thuần túy. Đây là một sai lầm hết sức nghiêm trọng. Đất nông nghiệp bên cạnh chức năng sản xuất các sản phẩm nông nghiệp, còn có tư cách là một hệ sinh thái. Giữ đất nông nghiệp, chính là giữ hệ sinh thái, duy trì sự cân bằng giữa môi trường và phát triển.

Việt Nam theo hạng mới nhất, là một trong 5 nước có diện tích đất đầu người thấp nhất thế giới. Vì thế, đã đến lúc cần phải thay đổi cách nhìn đối với nông nghiệp, quý trọng và sử dụng bền vững hơn nữa tài nguyên đất nông nghiệp.

Thạch Long