• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

“Kẻ chợ”- dấu tích ngôn ngữ về một hoạt động phổ biến của đất Kinh kì

(Chinhphu.vn)- Lâu nay, dân gian ta vẫn hay dùng từ "Kẻ Chợ" để chỉ “Hà Nội” hoặc “người Hà Nội”. Tuy không nằm trong văn bản nhà nước của các triều đại, song từ “Kẻ Chợ” có một nét đặc sắc riêng và xét về mặt ngôn ngữ, từ này cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố lịch sử, văn hoá, phong tục…

27/02/2010 15:47

Phố Hàng Buồm xưa. Ảnh: Người Hà Nội Online

Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ, còn gọi Từ điển Việt - Bồ - La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) của Alexandre de Rhodes xuất bản tại Roma năm 1651 (NXB Khoa học xã hội in lại, có chú giải, 1991) đã có từ “Kẻ Chợ” độc đáo này.

Mục từ “Kẻ” được A. de Rhodes giải nghĩa: “Những người, chỉ dùng nói về người ta khi nói cách không kính trọng. Kẻ chợ: Những người ở trong chợ, nghĩa là những người ở kinh đô Đông Kinh”.

Như vậy, nếu căn cứ vào cái mốc của tài liệu trên thì tên gọi Kẻ Chợ xuất hiện ít nhất là từ thế kỉ 17.

Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 2 (NXB Từ điển Bách khoa, 2002) đưa ra 2 thời điểm khác nhau về xuất xứ tên gọi Kẻ Chợ. Trang 180 (mục từ Hà Nội) ghi là “cuối thế kỉ 16” còn ở trang 462 (mục từ Kẻ Chợ) ghi “Trong những thế kỉ 17-18, các nhà buôn và giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam thường gọi Thăng Long là Kẻ Chợ”.

Cũng theo sách này, đây là “tên gọi dân gian kinh thành Thăng Long ngày xưa. Theo nghĩa hẹp, chỉ khu phố phường dân cư của kinh thành thời Lê - Trịnh, phân biệt với khu hoàng thành của vua quan”. Chợ là nơi kinh doanh, buôn bán hàng hoá (với hàng loạt các phố “hàng” khác nhau) ở Hà Nội xưa.

Vì vậy, cần tìm hiểu vấn đề là, “kẻ” trong Kẻ Chợ chỉ người hay chỉ nơi chốn?

Từ điển Từ cổ (Vương Lộc, NXB Đà Nẵng, 2001) cho “kẻ” là từ chỉ nơi chốn.

Theo tác giả Vương Lộc , “kẻ” được chia thành 2 nghĩa: “1. Nơi, chốn. Xưa nay mấy kẻ binh đao (Chinh phụ ngâm). Chẳng lạ nhân tình đất kẻ ta (Nguyễn Công Trứ); 2. Từ thường đặt trước một địa danh để gọi một đơn vị cư trú tương đương với xã, thôn; cũng có khi là một đơn vị cư trú lớn hơn. “Sử rao đến Tiên Du này. Đến làng Kẻ Đống về rày hôm mai (Thiên Nam ngữ lục). Ta ở Kẻ Láng vốn nhà trồng rau (ca dao.). Đồn rằng Kẻ Lạng vui thay” (ca dao).

Cũng theo cách cắt nghĩa này, từ “kẻ chợ” (không viết hoa) được giải thích là “Nơi đô thị, thường dùng để chỉ kinh đô Thăng Long hoặc chỉ kinh đô nói chung”. Như thế, “kẻ chợ” được dùng với ngoại diên rộng hơn nhiều (Ví dụ: có kẻ chợ Việt Nam, kẻ chợ Bắc Kinh, kẻ chợ Pháp, kẻ chợ Portugal (Bồ Đào Nha),…).

Nhưng có lẽ, “kẻ” trong “kẻ chợ" đầu tiên được sử dụng với hàm ý chỉ người.

Kẻ có thể là “1. Người hoặc những người như thế nào đó, nhưng không nói cụ thể là ai” hoặc có thể là “2. Người hoặc những người như thế nào đó, không nói cụ thể là ai, nhưng hàm ý coi thường, coi khinh” (Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2007, tr.740).

Có lẽ, đầu tiên người ta dùng “kẻ” trong Kẻ Chợ với nghĩa 1 (giống như trong kẻ ở người đi, kẻ Bắc người Nam, kẻ sĩ,…), mặc dù có hơi nghiêng về nghĩa 2 (hàm ý không được coi trọng, vì dân thương gia, buôn bán hẳn không phải là những người có thứ bậc cao trong xã hội).

Sau đó, “kẻ” tiếp tục phái sinh nghĩa, chỉ nơi chốn của một cộng đồng người nào đó, có nét đặc thù riêng. Vì thế, ta có kẻ chợ, kẻ quê, kẻ Sặt, kẻ Noi, kẻ Mơ, kẻ Láng, kẻ Đông,… Có vẻ nơi nào cũng được ghép với “kẻ” được.

Ở các từ này, nghĩa chỉ người và nghĩa chỉ một vùng địa danh có sự hoà kết tạo nên một nét nghĩa tổng quát. Kẻ Chợ (Hà Nội) là một tổ hợp mang đậm cách dùng này. Lúc đầu chỉ là để phân biệt 2 khu vực trong kinh thành (một nơi của dân buôn bán, xô bồ dân dã; một nơi là hoàng thành của vua chúa, đẹp đẽ nghiêm cẩn). Mặc dù, trong quá trình sử dụng, nét nghĩa chỉ địa danh dần dần trở thành nét trội. Chẳng hạn ta vẫn nghe nói: dân Kẻ Chợ, đất Kẻ Chợ, vùng Kẻ Chợ, văn hoá Kẻ Chợ…

Tuy chỉ là một cách nói dân dã, nôm na song càng ngày Kẻ Chợ càng trở nên đắc dụng do sự độc đáo, gây sự chú ý về ngôn từ. Đặc biệt, nó được coi như một dấu tích ngôn ngữ “hoá thạch” của một thời, phản ánh chân thực một hoạt động quan trọng, chủ yếu, phổ biến của đất kinh kì Thăng Long từ xưa đến nay, khi nơi đây trở thành một địa điểm sản xuất, buôn bán, lưu thông các sản phẩm hàng hoá… nhộn nhịp, sầm uất: Chàng về Kẻ Chợ thăm thầy/ Nhớ mua cau đậu trầu cay cho nàng (ca dao).

Nhưng dù sao, đây vẫn chỉ là một cái tên không chính thức nếu đối chiếu với hàng loạt những cái tên hoàn toàn chính danh đã được ghi vào lịch sử 1000 năm của Thủ đô ta: Cổ Loa, Tống Bình, Đại La, Thăng Long, Đông Đô, Đông Kinh, Đông Quan, Hà Nội,… Tuy không nằm trong văn bản nhà nước của các triều đại, song từ Kẻ Chợ có một nét đặc sắc riêng và xét về mặt ngôn ngữ, từ này cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố lịch sử, văn hoá, phong tục… cần xem xét.

Phạm Văn Tình