Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Đối với thủ đô Hà Nội, tên tuổi của Trung tướng Vương Thừa Vũ gắn liền với chiến công lịch sử vẻ vang trong cuộc chiến đấu 60 ngày đêm “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” (từ 19/12/1946-17/2/1947) của quân và dân Hà Nội khởi đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược. Được giao làm chỉ huy trưởng mặt trận Hà Nội, với thế trận ‘trong đánh, ngoài vây” (trùng độc chiến) do ông đề xướng được Đại tướng tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp tán thành và nhiều cách đánh thiên biến vạn hóa của chiến tranh nhân dân, tướng Vương Thừa Vũ cùng quân dân thủ đô lập nên kỳ tích: bằng một lực lượng vũ trang non trẻ đã chiến đấu thắng lợi, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giam chân đội quân chính qui đông khoảng 6500 binh sĩ của Pháp trong thành phố suốt hai tháng trời (gấp đôi thời gian qui định), tạo điều kiện cho cả nước triển khai chiến lược trường kỳ kháng chiến. Với cuộc rút quân “thần kỳ” của trung đoàn Thủ đô ra khỏi Liên khu I bị địch bao vây bốn bề, Hà Nội đã thực hiện xuất sắc chủ trương diệt địch đi đôi với bảo toàn lực lượng ta để chiến đấu lâu dài cho đến ngày toàn thắng.
Tám năm sau, Trung ướng Vương Thừa Vũ lại là người chỉ huy Đại đoàn 308 trở về giải phóng thủ đô vào tháng 10/1954 sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Với cương vị đại đoàn trưởng Đại đoàn 308, trong đó có Trung đoàn Thủ đô “ra đi hẹn ngày trở về”, Trung tướng Vương Thừa Vũ được cử làm Chủ tịch ủy ban quân chính cùng với Phó chủ tịch Trần Duy Hưng đưa đoàn quân chiến thắng vào tiếp quản Thủ đô.
Sinh thời, trung tướng Vương Thừa Vũ đã kể lại ngày giải phóng Thủ đô như sau:
Ngày 2/10/1954, đồng chí Trần Danh Tuyên dẫn đầu một đoàn cán bộ hành chính vào Hà Nội ký nhận bàn giao mọi mặt với đại diện Bộ chỉ huy quân đội Pháp. Tiếp đó, một số phân đội của Đại đoàn 308 được lệnh vào trước để cùng canh gác với binh lính Pháp tại các địa điểm trọng yếu.
Ngày 8/10, gió mùa đông bắc tràn về, trời u ám, mưa lất phất. Về chiều mưa càng nặng hạt. Phố xá cửa đóng im lìm. Tại thành Hà Nội, quân Pháp làm lễ cuốn cờ. Cũng kèn đồng rúc inh ỏi, cũng những đội lê dương xếp hàng dọc thẳng tắp. Lá cờ ba sắc của Pháp từ từ tuột xuống. Tướng Mat-xông, tư lệnh các đơn vị triệt thoái đứng dưới chân cột cờ sơn trắng, buồn rầu giơ hai tay đỡ lấy lá cờ, gấp lại làm tư rồi trịnh trọng giao cho viên quan nắm Đắc giăng xơ, viên sĩ quan kỳ cựu chuyên coi đám lính gác thành này từ ngày quân Pháp khởi hấn ở Thủ đô. Ngay tối ngày 8/10, quân Pháp đã chuyển các bộ phận nặng như pháo binh, xe tăng sang bên Gia Lâm, chỉ còn để lại trong Hà Nội hai tiểu đoàn bộ binh và một số xe thiết giáp, xe vận tải.
Hà Nội náo nức mong chờ đoàn quân chiến thắng trở về.
Không khí ngày hội khải hoàn bắt đầu đổ về vùng ngoại thành, bên ngoài các cửa ô.
Bộ đội tấp nập kéo về, người, xe xếp thành đội ngũ chỉnh tề, dọc các đường cái lớn đi vào Thủ đô.
Trong các làng, các thôn xã thuộc huyện Từ Liêm, Thanh Trì, nhà nào nhà ấy sáng đèn, đỏ lửa, quân dân hội họp ca hát, trò chuyện thâu đêm.
Ngày 9/10/1954, tại sở chỉ huy Đại đoàn 308 đặt ở bên đường Hà Đông - Hà Nội, chúng tôi vui sướng, hồi hộp theo dõi từng bước đi của ba cánh quân tiến về Hà Nội theo kế hoạch đã được Bộ Tổng tư lệnh chuẩn y. Mỗi cánh quân là một tiểu đoàn:
Cánh thứ nhất, qua ô Cầu Giấy, đê La Thành, đường Hoàng Hoa Thám vào vườn hoa cạnh hồ Tây rồi vào tiếp nhận Thành Hà Nội, nhà máy điện Yên Phụ, nhà máy nước, phủ Toàn quyền (nay là Phủ Chủ tịch).
Cánh thứ hai, theo đường số 6 qua Cầu Mới vào đến Ngã Tư Sở rẽ phải vào tiếp quản sân bay Bạch Mai, Bệnh viện Bạch Mai, khu ga xe lửa Hà Nội.
Cánh thứ ba, tiếp nhận các công sở từ khu vực Việt Nam học xã (nay là khu vực Đại học Bách Khoa), Đồn Thủy, khu hồ Hoàn Kiếm.
Đúng 16h30, khi toán lĩnh Pháp cuối cùng rút khỏi cầu Long Biên cùng với viên đại tá Đắc-giăng-xơ sang Gia Lâm thì cả Hà Nội bừng lên, tràn ngập cờ hoa, sắc áo, như một vườn hoa gặp tiết xuân nở rộ. Băng vải các màu căng ngang đường với những khẩu hiệu được cắt theo các kiểu chữ cầu kỳ: “Hồ Chí Minh muôn năm”, “Hoan hô đoàn quân chiến thắng trở về!”, “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa muôn năm!”, v.v. Cổng chào mọc lên san sát suốt dọc các phố lớn, phố nhỏ, lối vào một ngõ ngắn khuất nẻo cũng có cổng chào, giăng đèn kết hoa.
Vẫn biết Hà Nội hướng về kháng chiến, vẫn biết Hà Nội ngày đêm mong đoàn quân chiến thắng trở về, vẫn biết trong những ngày này, Hà Nội đang may cờ đỏ sao vàng, sắm hoa đón ngày chiến thắng, nhưng những cái biết trước đó dẫu cho có mạnh đến đâu cũng không bằng sự thật sinh động đang diễn ra trước mắt đoàn quân trở về. Mới trước đó ít phút, Hà Nội còn là thành phố vắng tanh với những lo âu, mặc cảm, cửa từng nhà đóng kín, thì sau đó ít phút, cả Hà Nội bừng dậy, hồi sinh, sôi động, náo nhiệt.
Đêm hôm đó, Hà Nội nghiêm chỉnh chấp hành lệnh giới nghiêm của Ủy ban Quân chính thành phố. Nhưng cũng là một đêm giới nghiêm đặc biệt, ra ngoài khuôn khổ của từ này. Đường phố sáng rực những dây đèn kết hoa, cờ bay phấp phới, nhân dân không ai ra khỏi nhà, nhưng nhà nào cũng mở cửa đến khuya, nhiều nhà chong đèn đến sáng, mỗi lần có đội tuần tra đi qua, các cánh cửa sổ lại mở hé, bà con trìu mến nhìn bộ đội ta hiền lành giản dị, dễ thương. Đã hơn ba nghìn đêm, kể từ tháng 9/1945, quân Tưởng vào, rồi tháng 3/1946 quân Pháp đến, cho đến bây giờ, Hà Nội mới có một đêm sạch bóng quân xâm lược, nên ai cũng muốn thức thật khuya để hưởng không khí thanh bình, êm ả của đêm giải phóng, ai cũng mong có một đêm nay để làm kỷ niệm trong đời mình đã từng sống ở Thủ đô.
Ngày 10/10/1954 - một ngày lịch sử.
5 giờ sáng hết giờ giới nghiêm, cả Hà Nội nhộn nhịp, vừa có cái không khí thiêng liêng của ngày Tết vừa có cái tưng bừng rạo rực của ngày hội lớn – Hội chiến thắng – Thủ đô hoàn toàn giải phóng. Nhân dân quần áo chỉnh tề, cờ hoa rực rỡ từng đoàn, từng đoàn đứng đông nghịt trên các hè phố, các con đường được báo trước là có bộ đội sẽ đi qua...
Sáng nay, Sở chỉ huy Đại đoàn 308 di chuyển vào sân bay Bạch Mai cùng với các đơn vị bộ binh cơ giới, pháo binh, pháo cao xạ. Phía tây, Trung đoàn Thủ đô tập trung ở trại Quần Ngựa. Phía đông trung đoàn 36 và trung đoàn 88 tập trung ở Việt Nam học xã.
Đại đoàn tiến vào Hà Nội theo ba hướng, tất cả gặp nhau ở hồ Gươm. Dẫn đầu là Trung đoàn Thủ đô, tiếp theo là Trung đoàn 36, Trung đoàn 88.
Hôm qua Hà Nội rợp bóng cờ. Hôm nay Hà Nội là rừng cờ và hoa. Càng tiến sâu vào trong lòng Hà Nội, càng khó nén nổi xúc động, mắt nhòa lệ vì niềm vui gặp mặt, niềm vui về lại Thủ đô. Nhất là các cán bộ, chiến sĩ năm xưa đã chiến đấu trên mảnh đất này khi được lệnh ra đi đã hứa với Hà Nội “sẽ trở về”, lời hứa đó hôm nay đã thành sự thật: “Ra đi hẹn một ngày về, Ba Đình còn đó, người thề còn đây”. Từng đoàn thiếu nữ ôm hoa đổ ra đường tặng bộ đội, cài lên súng, tung lên xe. Những tốp thiếu nhi tay vốc từng nắm hoa giấy tung lên như thả những đàn bướm muôn mùa nhỏ li ti bay sà vào những chiếc xe trận đang từ từ lăn bánh đi qua. Nhân dân hò reo phất cờ, vẫy hoa. Bộ đội đi giữa rừng cờ, rừng hoa, rừng người tươi như hoa...
Từ hồ Gươm, đoàn quân chiến thắng tiến qua các phố Hàng Đào, Hàng Ngang, Đồng Xuân lên Cửa Bắc, vào thành Hà Nội, tập trung tại sân vận động Cột Cờ Hà Nội. Cả Hà Nội dồn về Cột Cờ chờ đón giây phút lịch sử. Đã 72 năm kể từ ngày Hà thành thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết (25/4/1882), cột cờ do nhà Nguyễn xây dựng hết phải treo cờ Tây, cờ Nhật, cờ Tàu Tưởng rồi lại cờ Tây, giờ đây mới được mang cờ Tổ quốc. Tối qua, bộ đội công binh của đại đoàn đã lắp lên đó một ống thép nặng hai tạ, cao 12 mét, cao vút, nâng lá cờ Tổ quốc sừng sững hiên ngang.
15 giờ, còi nhà hát thành phố nổi lên một hồi dài. Đoàn quân nhạc cử Quốc thiều theo sự điều khiển của đồng chí Đinh Ngọc Liên, người nhạc trưởng già rất quen thuộc với nhân dân Hà Nội.
Lần đầu tiên lá cờ đỏ sao sàng, cờ Tổ quốc tung bay trên đỉnh cột cờ Hà Nội.
Trong buổi lễ chào cờ lịch sử này, tôi được vinh dự đọc thư của Hồ Chủ tịch gửi đồng bào Thủ đô:
“Tám năm qua, Chính phủ phải xa rời Thủ đô để kháng chiến cứu nước. Tuy xa nhau nhưng lòng Chính phủ luôn luôn gần cạnh đồng bào.
Ngày nay, do quân và dân ta đoàn kết nhất trí, quân đội ta chiến đấu anh dũng, kháng chiến đã thắng lợi, Chính phủ lại trở về Thủ đô với đồng bào. Muôn dặm một nhà, lòng vui khôn xiết kể!”.
Lời Bác thân mật, thiết tha. Nhiều người không nén được xúc động, nước mắt rưng rưng. “Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm”... Tôi cũng xúc động không cầm được nước mắt, phải dừng lại ít phút, vì những tiếng hô chứa chan lòng kính yêu lãnh tụ của nhân dân Thủ đô.
Tôi nén xúc động, đọc tiếp thư Bác. Người dặn dò nhân dân Thủ đô hãy “đồng tâm nhất trí góp sức với Chính phủ, thì chúng ta nhất định vượt mọi khó khăn và đạt được mục đích chung: làm cho Hà Nội thành một Thủ đô yên ổn, tươi vui và phồn thịnh”.
Thư Bác đọc vừa chấm dứt thì tiếng hô: “Hồ Chủ tịch muôn năm” lại đồng thanh vang động trong sân vận động, qua loa truyền thanh truyền lan khắp các đường phố, mang lại trong lòng mỗi người dân Thủ đô một luồng gió mới, một không khí mới, thanh thản, tươi vui, tin tưởng, ấm áp tình người để ngày mai bắt tay vào xây dựng lại Thủ đô to đẹp, xứng đáng là vị trí trung tâm chính trị và văn hóa của cả nước.
Những ngày này, với cương vị Chủ tịch Ủy ban Quân chính thành phố, hàng ngày, tôi được tiếp nhiều đoàn khách trong nước và ngoài nước, phải cùng với các ngành, các giới giải quyết công việc sản xuất và đời sống của Thủ đô. Qua các cuộc tiếp xúc và bàn bạc công việc đó, đại diện các cơ quan, đoàn thể luôn luôn tỏ lời khen bộ đội ta vào Thủ đô đã nghiêm chỉnh chấp hành mọi chính sách của Đảng và Chính phủ. Toàn bộ tài sản của Nhà nước đã được cán bộ, chiến sĩ quý trọng và giữ gìn chu đáo, khi bộ đội bàn giao lại các công sở cho các cơ quan Nhà nước không thiếu một vật nhỏ, thậm chí cái bàn, cái ghế trong đó lúc vào đặt ở đâu, lúc ra vẫn ở nguyên đó.
Ngày 16/10/1954, các đại biểu của nhân dân Thủ đô được mời đến Bắc Bộ phủ (nay là Nhà khách Chính phủ ở 12 phố Ngô Quyền) gặp Bác Hồ. Đây là lần đầu tiên kể từ ngày Hà Nội giải phóng, Bác ra mắt nhân dân. Tôi được vinh dự đi cùng với Bác đến Bắc Bộ phủ. Hôm ấy Bác vui, thân mật hỏi han công việc làm ăn của nhân dân, thăm hỏi sức khỏe của các cụ già, âu yếm các cháu thiếu nhi. Buổi gặp mặt tràn đây không khí chan hòa, ấm cúng, chuyện trò cởi mở.
Trong cuộc họp mặt này, tôi được Bác giới thiệu với các đại biểu: “Đồng chí Vương Thừa Vũ, Chủ tịch Ủy ban Quân chính thành phố Hà Nội, cũng là con em của nhân dân Hà Nội ta đấy”. Tôi đứng nghiêm đáp lại lời giới thiệu thân mật ấy của Bác trước các đại biểu. Nhưng phải đứng nghiêm hơi lâu vì các cháu thiếu nhi rất hồn nhiên và cũng hơi có tính địa phương chủ nghĩa, đã cố tình kéo dài một dịp hoan hô “anh bộ đội Thủ đô”.
Buổi họp trật tự trở lại, Bác vui vẻ nói tiếp: “Bội đội ta đánh nhiều trận, gối đất nằm sương, gian khổ nhiều, đi đâu cũng được đồng bào quý mến. Tôi nghe nói đồng bào Thủ đô rất hoan nghênh bộ đội, tôi rất vui lòng. Cả căn phòng lớn của Bắc Bộ phủ lại vang lên tràng pháo vỗ tay thật dài. Tôi đứng dậy đáp lại lời biểu dương của Bác và lòng yên mến của các đại biểu, bỗng nhiên tôi nhớ lại hồi tổng kết chiến dịch Tây Bắc thu đông năm 1952, bộ đội thắng rất to, được Bác Hồ khen là “Bác bằng lòng các chú”, lần này Bác khen cao hơn, Bác “rất vui lòng”.
Hạnh phúc nào bằng khi đứng trước nhiệm vụ khó khăn ta không nản chí, không kêu ca, không đặt điều kiện, trái lại xác định quyết tâm làm và tìm mọi biện pháp khắc phục để làm tốt.
Vinh quang nào bằng, dù làm bất cứ công việc gì, chiến đấu hay công tác, nhiệm vụ nhỏ hay nhiệm vụ lớn, đều lập được thành tích xuất sắc, được lãnh tụ biểu dương, được nhân dân thừa nhận.
Đại doàn 308 vào thành đã vững như thành, đã chiến thắng cả hai loại “đạn đồng và đạn bọc đường”, đã về trong thắng lợi và đã thắng lợi trên đường trở về.
Được như vậy là do Đảng vĩ đại, Bác Hồ kính yêu dìu dắt, được nhân dân đùm bọc, toàn thể cán bộ, chiến sĩ đại đoàn đoàn kết nhất trí, không ngừng trau dồi bản lĩnh, truyền thống bản chất quân đội cách mạng.
Đảng ủy và Bộ chỉ huy Đại đoàn 308 thông báo kịp thời lời biểu dương của Bác Hồ xuống các đơn vị và phát động thi đua thực hiện tốt lời căn dặn của Người: “Chớ vì có thành tích mà chủ quan. Phải luôn luôn cảnh giác, và giữ kỷ luật chặt chẽ. Phải luôn luôn thi đua học tập và công tác, mở rộng tự phê bình và phê bình để tiến bộ mãi, để làm cho bộ đội ta càng thêm hùng mạnh, chính quyền ta càng thêm vững chắc”.
Triệu Chinh Hiểu
(Theo hồi ký “Trưởng thành trong chiến đấu” của Trung tướng Vương Thừa Vũ)