Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ

Bệnh nhân sau mổ kết hợp 2 tuần đến tái khám với sức khỏe cải thiện rõ rệt - Ảnh: VGP/HM
Từ những trăn trở của bác sĩ… đến ca bệnh thành công
Mới đây, các bác sĩ của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức triển khai phương pháp kết hợp mổ phối hợp nội soi đường mũi và đường mở sọ qua vi phẫu cho một bệnh nhân nữ, 55 tuổi, ở Hà Nội. Trước đó, bệnh nhân bị mắt kém, chân đau trong thời gian dài.
Khi đi khám, người bệnh phát hiện mắc u tế bào tuyến yên khổng lồ, mắt trái không nhìn thấy, không có phản xạ với ánh sáng, mắt phải nhìn được 3/10. Bệnh nhân đã 2 lần mổ vào năm 2021 và 2023, mặc dù mắt có nhìn rõ hơn một chút nhưng bệnh tái phát nhiều lần.
Cách đây 2 tuần, người bệnh được chỉ định phẫu thuật kết hợp 2 kỹ thuật mổ phối hợp nội soi đường mũi và đường mở sọ qua vi phẫu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
Chia sẻ với phóng viên, người bệnh cho biết, vết thương chỗ mổ của chị khô nhanh hơn, không bị chảy nước, nhận thức cũng tốt hơn và nhanh hơn các lần mổ trước, đặc biệt thị lực của chị đã cải thiện rõ rệt, chân không còn đau.
Trao đổi với phóng viên, Ths.BS Nguyễn Duy Tuyển, Trưởng khoa Phẫu thuật thần kinh 2, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho biết, trước đây, bệnh nhân này được phẫu thuật 2 lần với 2 kỹ thuật đơn lẻ, tức là hoặc nội soi hoặc mổ mở sọ. Tuy nhiên, với các trường hợp bị u tế bào tuyến yên khổng lồ, khi áp dụng 1 trong 2 kỹ thuật đơn lẻ này, người bệnh thường bị tái phát và phải phẫu thuật lại.
"Bệnh nhân này chỉ là 1 trong số không ít bệnh nhân mắc u tuyến yên khổng lồ bị tái phát nhiều lần. Vì vậy, chúng tôi luôn trăn trở làm thế nào để hạn chế mức thấp nhất người bệnh bị tái phát. Đến tháng 4/2025, lần đầu tiên chúng tôi đã triển khai thành công kết hợp 2 kỹ thuật này cùng lúc để điều trị cho người bệnh cũng mắc u tế bào tuyến yên khổng lồ, khiến thị giác bị suy giảm trầm trọng", Ths Nguyễn Duy Tuyển chia sẻ.

Kết hợp 2 cuộc "đại phẫu" cùng lúc để hạn chế thấp nhất biến chứng cho người bệnh -Ảnh: VGP/GM
Kết hợp đồng thời "2 cuộc đại phẫu"
Cũng theo Ths Nguyễn Duy Tuyển, phương pháp kết hợp 2 kỹ thuật này đã được triển khai trên thế giới hơn chục năm nay. Một nghiên cứu so sánh có đối chứng ở Trung Quốc vào tháng 4/2024 – quốc gia có số lượng lớn bệnh nhân được triển khai phương pháp này cho thấy, trong tổng số 647 bệnh nhân mắc u tuyến yên, có 41 bệnh nhân lựa chọn điều trị phối hợp 2 kỹ thuật (nội soi đường mũi và mổ mở sọ). Các bệnh nhân còn lại chỉ điều trị 1 trong 2 kỹ thuật, là mổ nội soi đường mũi hoặc mổ mở sọ.
Những bệnh nhân được sử dụng kết hợp phương pháp nội soi qua mũi (qua xoang bướm) và mổ mở xương sọ qua vi phẫu đều phục hồi nhanh, giảm biến chứng và thị lực được cải thiện đáng kể. Cụ thể, tỷ lệ bệnh nhân gặp biến chứng đe dọa tính mạng thấp hơn ở nhóm điều trị không kết hợp 2 kỹ thuật này là ba lần; khả năng phục hồi phục mắt rất lớn. Đặc biệt, khả năng bệnh nhân phải tái mổ là rất ít.
Tại Việt Nam, hiện Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức là đơn vị đầu tiên triển khai thành công kết hợp 2 kỹ thuật này.
Tính từ tháng 4/2025 đến nay, đã có 6 người bệnh được điều trị bằng phương pháp này. Trong đó, có 1 ca phải điều trị suy tuyến yên lâu dài, 5 ca bệnh khác có sức khỏe phục hồi tốt, nhất là thị giác.

Hình ảnh khối u tuyến yên khổng lồ ở người bệnh - Ảnh: VGP/TM
Thêm lựa chọn tối ưu cho người bệnh
Hiện nay, phương pháp kết hợp này là lựa chọn ưu tiên để can thiệp điều trị u tế bào tuyến yên khổng lồ (thường có kích thước 1 chiều từ 4cm trở lên, hoặc thể tích 10 cm3 trở lên), điều trị u xâm lấn xung quanh và các trường hợp tái phát nhiều lần.
Theo Ths Nguyễn Duy Tuyển, điều khó nhất của phương pháp này chính là sự kết hợp hài hòa, khéo léo, nhịp nhàng cùng lúc giữa các phẫu thuật viên của 2 ekip mổ, gồm mổ nội soi đường mũi và mổ mở sọ qua vi phẫu.
"Tức là, một kip sẽ phẫu thuật từ trên sọ đẩy xuống, một kip phẫu thuật nội soi từ phía dưới mũi lên. Cả hai phải phối hợp cực kỳ nhịp nhàng và ăn ý", TS Nguyễn Duy Tuyển chia sẻ.
Vì mổ phối hợp 2 đường nên phải có 2 ekip đều là các phẫu thuật viên có kinh nghiệm. Để "xây dựng" được một ekip tổng lực gồm cả phẫu thuật vùng vi phẫu và phẫu thuật nội soi, chúng tôi phải chuẩn bị rất kỹ từ trang thiết bị đến nhân lực nhiều kinh nghiệm. Với phương pháp này, không chỉ là sự phối hợp giữa các ekip chuyên môn mà cùng một lúc kết hợp 2 kỹ thuật phẫu thuật lớn.
Tuy nhiên, khi mổ phối hợp 2 đường, người bệnh có nguy cơ bị chảy dịch não tủy qua mũi do 2 ổ mổ thông với nhau. Vì vậy, việc đóng kín đường mổ là rất quan trọng. Việc lấy u nhưng bảo tồn các chức năng cũng là vấn đề đặc biệt cần phải lường trước, nhất là đối với các u to, có xâm lấn nhiều.
Điều đặc biệt, khi triển khai song song, 2 kỹ thuật này bổ trợ cho nhau vô cùng tuyệt vời. Những điểm mù của kỹ thuật nội soi không thấy được thì kỹ thuật vi phẫu qua đường sọ sẽ khắc phục. Hoặc trường hợp u lan xuống đến nền sọ thì nội soi lại hơn kỹ thuật kính vi phẫu.
Trước đây, những bệnh nhân mắc u tế bào tuyến yên khổng lồ thường điều trị bằng phương pháp truyền thống. Đầu tiên là mổ u tuyến yên qua đường sọ. Cách đây khoảng 20 năm, những bệnh nhân này bắt đầu được triển khai phẫu thuật qua đường mũi (qua xoang bướm). Sau đó, bắt đầu có định vị trong mổ và sử dụng phương pháp nội soi. Tuy nhiên, mổ nội soi qua đường mũi thường phù hợp với mổ u nhỏ, nằm trong tuyến yên.

Sự kết hợp hoàn hỏa giữa 2 ekip phẫu thuật nhiều kinh nghiệm của BV Hữu nghị Việt Đức - Ảnh: VGP/HM
Khẳng định chất lượng y tế Việt Nam vươn tầm quốc tế
Cũng theo TS Nguyễn Duy Tuyển, u tuyến yên thường lành tính nhưng rất hay tái phát. Phương pháp kết hợp này đã mở hướng, thêm cơ hội điều trị đối với bệnh nhân mắc u tuyến yên khổng lồ. Ưu điểm lớn nhất của phương pháp này là giảm tái phát, giảm biến chứng và cải thiện thị lực đáng kể cho người bệnh.
Bệnh u tuyến yên chia thành 2 nhóm: chế tiết hoặc không chế tiết. Đối với nhóm chế tiết, người bệnh thường phát hiện sớm bệnh hơn do thay đổi hormone, người bệnh có các triệu chứng biến dạng, dễ nhận biết như chân tay to, tự nhiên tiết sữa, mất kinh…
Với nhóm u không chế tiết, tức là không chế tiết ra hormone gì nên cơ thể người bệnh không cảm thấy có sự thay đổi. Người bệnh chỉ đi khám khi có biểu hiện mờ mắt. Điều này cũng lý giải vì sao đa số bệnh nhân mắc u tuyến yên nhóm không chế tiết đều bị u khổng lồ và bệnh nhân thường đến viện muộn.
Đến nay, nguyên nhân gây bệnh u tuyến yên vẫn chưa được xác định rõ ràng.
Việc kết hợp thành công 2 cuộc phẫu thuật lớn được ví như "2 cuộc đại phẫu" trong cùng thời điểm trên bệnh nhân tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức thêm minh chứng về chất lượng nhân lực y tế của Việt Nam ngày càng chuyên sâu, bài bản và vươn tầm quốc tế.
Hiền Minh