Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Bà Nguyễn Minh Thảo cho rằng, quản lý, kiểm tra chuyên ngành chậm cải cách, thậm chí có những văn bản mới được ban hành đi ngược với chỉ đạo của Chính phủ. |
Bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng Ban Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh của CIEM, nhấn mạnh những lo ngại này tại hội thảo sáng 28/10 về môi trường kinh doanh của Việt Nam.
Kết quả xếp hạng của Ngân hàng Thế giới cho thấy 4 năm qua, điểm số môi trường kinh doanh của Việt Nam liên tục tăng. Còn theo bảng xếp hạng về năng lực cạnh tranh của WEF, năm 2019, Việt Nam tăng 3,5 điểm (từ 58 điểm lên 61,5 điểm) và tăng 10 bậc (từ vị trí 77 lên vị trí 67).
Tuy nhiên, vị trí về môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2019 lại tụt 1 bậc, xuống thứ 70 trên 190 nền kinh tế được khảo sát. Năng lực cạnh tranh tuy cải thiện vượt bậc nhưng có tới 8/12 trụ cột có thứ hạng thấp hoặc rất thấp.
Theo đánh giá của CIEM, môi trường kinh doanh còn nhiều trở ngại. Đặc biệt, có xu hướng các văn bản pháp luật thể hiện sự “chia phần” quản lý giữa các cơ quan quản lý nhà nước, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Bà Nguyễn Minh Thảo nhắc tới Nghị định 44 năm 2016 về kiểm định kỹ thuật an toàn lao động, trước đây doanh nghiệp chỉ cần xin giấy phép tại Bộ LĐTB&XH thì nay phải xin giấy phép của 9 Bộ với cùng một nội dung công việc. Trong nhiều trường hợp, các quy chuẩn, quy trình, biểu mẫu… về kiểm định an toàn lao động giống nhau, nhưng các Bộ không thừa nhận kết quả của nhau và vẫn yêu cầu phải tham gia đào tạo lại để được cấp chứng chỉ, với chi phí đào tạo chính thức khoảng 10 triệu đồng mỗi người.
Bộ Xây dựng có thẩm quyền quản lý với cần trục tháp, còn Bộ LĐTB&XH có thẩm quyền với các cần trục còn lại, trong khi Bộ GTVT có thẩm quyền khi các phương tiện này dùng trong cảng hàng không, đóng tàu thủy…
Tương tự, Bộ LĐTB&XH quản lý nồi hơi có áp suất không quá 16 bar, còn Bộ Công Thương quản lý nồi hơi có áp suất lớn hơn 16 bar. Máy điều hòa nhiệt độ có công suất nhỏ hơn 90.000 BTU thuộc quản lý của Bộ KH&CN, nhưng máy có công suất lớn hơn 90.000 BTU lại thuộc quản lý của Bộ LĐTB&XH và yêu cầu kiểm tra chất lượng trước khi thông quan.
“Quản lý, kiểm tra chuyên ngành chậm cải cách, thậm chí có những văn bản mới được ban hành đi ngược với chỉ đạo của Chính phủ”, bà Thảo nhận định.
Đặc biệt, bà Nguyễn Minh Thảo cho biết, trước đây Bộ LĐTB&XH không quản lý, kiểm tra chuyên ngành nhưng sau khi Chính phủ yêu cầu các Bộ rà soát, sửa đổi các quy định nhằm cắt giảm 50% danh mục mặt hàng quản lý, kiểm tra chuyên ngành và quản lý danh mục các mặt hàng theo mã HS, thì Bộ này dường như “khai thác” cơ hội này để ban hành quy định về danh mục hàng hóa nhóm 2 của Bộ với việc bổ sung danh mục nhiều hàng hóa. Do đó, Thông tư 22 năm 2018 của Bộ này, theo CIEM, là “phản cải cách và đi ngược chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng”.
Một ví dụ khác, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 765 năm 2019 công bố danh mục các mặt hàng kèm mã HS đã được cắt giảm kiểm tra chuyên ngành, trong đó liệt kê hàng trăm mặt hàng sắt thép và dệt may. Tuy vậy, nội dung trong Quyết định này chỉ là không kiểm tra trong giai đoạn thông quan, mà chuyển sang kiểm tra sau thông quan. “Có hay không bệnh thành tích khi số liệu sẽ báo cáo là hàng trăm mặt hàng được cắt bỏ?”, bà Thảo đặt câu hỏi.
Một ví dụ khác, trước đây, Bộ KH&CN yêu cầu kiểm tra chất lượng với dây điện bọc nhựa PVC có điện áp định danh đến và bằng 450/750V, thì nay yêu cầu dây và cáp điện. Như vậy, phạm vi mặt hàng mở rộng hơn rất nhiều.
Cũng theo bà Thảo, chi phí không chính thức còn phổ biến ở hầu hết các lĩnh vực. Cùng một quy định chính sách, nhưng cách thực thi khác nhau, có tình trạng tùy tiện trong áp dụng pháp luật và phần thua luôn thuộc về doanh nghiệp.
Chẳng hạn, Nghị định 15 năm 2018 nêu rõ các trường hợp được miễn kiểm tra về an toàn thực phẩm, trong đó bao gồm sản phẩm là mẫu thử nghiệm hoặc nghiên cứu có số lượng phù hợp với mục đích nghiên cứu hoặc thử nghiệm có xác nhận của tổ chức, cá nhân.
Tuy nhiên, các lô hàng phi mậu dịch, hàng mẫu, đặc biệt là qua chi cục hải quan chuyển phát nhanh luôn bị yêu cầu kiểm tra an toàn thực phẩm hoặc xác nhận miễn kiểm tra từ cơ quan quản lý chuyên ngành. Trong khi, ở các cửa khẩu khác như sân bay hoặc cảng biển thì không bị yêu cầu như vậy.
“Tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu gạo đều phải chi trả chi phí không chính thức với mức cao cho các tổ chức kiểm định. Các tổ chức này thường yêu cầu doanh nghiệp phải chi ngoài với mức 25-30 đồng/kg gạo, tương đương 25-30 triệu đồng cho 1.000 tấn”, bà Thảo cho biết.
Một số vướng mắc, bất cập kéo dài mà không được xử lý, như thủ tục kiểm tra formaldehyte trên sản phẩm dệt may theo Thông tư 21 năm 2017 của Bộ Công Thương. Từ khi nhập khẩu cho đến khi sản phẩm được lưu thông trên thị trường, doanh nghiệp cần hơn 1 tháng để có chứng nhận hợp quy trên hệ thống và dán tem hợp quy, chi phí từ 10 – 20 triệu đồng.
Cùng với đó, các doanh nghiệp cho rằng việc kiểm tra chất lượng gây tốn kém chi phí mà hầu như không có sản phẩm không đạt, danh mục áp thuế không thống nhất giữa cơ quan hải quan và các bộ quản lý chuyên ngành, những mâu thuẫn giữa các quy định của các Bộ chậm được giải quyết và khó khăn luôn dồn về phía doanh nghiệp…
Hà Chính