Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Không còn mù mịt khói bụi như làng nung vôi Hương Vỹ, không còn mùi ô nhiễm nồng nặc như làng nấu rượu Vân Hà, làng gốm sứ Bát Tràng đã tìm được con đường"xanh - sạch - đẹp" cho mình bằng cách áp dụng công nghệ lò nung bằng khí gas.
Công nghệ cũ nhiều rủi ro
Nằm bên hữu ngạn sông Hồng, làng gốm Bát Tràng đã có lịch sử phát triển hơn 500 năm. Cách làm thủ công bao đời truyền lại đã khiến 1.700 hộ Bát Tràng đối mặt với không ít rủi ro từ chính phương thức sản xuất lạc hậu - đốt lò bằng than.
Từ năm 2000 trở về trước, với khoảng 1.000 lò hộp đốt than, mỗi năm Bát Tràng tiêu thụ khoảng 70.000 tấn than và 100.000 tấn vật liệu để sản xuất các sản phẩm gốm sứ. Quá trình sản xuất này đã thải ra môi trường khoảng 130 tấn bụi/năm,làm rơi vãi, loại bỏ khoảng 225 tấn đất vật liệu và than, khoảng 6800 tấn tro sỉ/năm. Không khí bị ô nhiễm nặng nề bởi hàng ngày có khoảng 2000 tấn khí độc hại gồm CO, CO2, SO2, H2S, hắc ín, Hydrocacbon bủa vây cuộc sống con người.
Lò nung bằng than đã gây nên những tác hại lớn tới đời sống sinh hoạt và sức khỏe của người dân. Khói than và gỗ đốt lò đã khiến không khí mù mịt, nhiệt độ trong làng luôn cao hơn các nơi khác từ 3 - 4oC. Kết quả là 70% dân số mắc bệnh đường hô hấp và 80% người bị đau mắt hột.
Bên cạnh những hậu quả nghiêm trọng về môi trường do lò nung bằng than đem lại, người làm gốm còn đứng trước những lo ngại về chi phí đầu vào, đặc biệt là lượng than đem vào đốt quá lớn. Việc lấy công làm lãi xem ra cũng không còn đảm bảo cho cuộc sống của 1.000 hộ đang cố giữ lấy nghề tổ của cha ông.
Lò nung bằng gas - giải bài toán ô nhiễm môi trường và tiết kiệm năng lượng
Lò nung bằng gas xuất hiện ở Bát Tràng gắn liền với một người con của làng gốm này - ông Lê Đức Trọng, Giám đốc Công ty cổ phần Thiết kế và Sản xuất gốm sứ Bát Tràng.
Năm 1999, trở về làng sau bao năm xa cách, nhói lên trong lòng ông Trọng là cảm giác xót xa trước cảnh làng gốm ô nhiễm, tiêu điều, xơ xác, đời sống người dân lay lắt, nghèo nàn. Không cam tâm trước sự mai một của làng nghề truyền thống, ông đã tìm hiểu kỹ thuật lò nung của Nga, Ấn Độ, Đài Loan, tìm cách thay đổi công nghệ đốt lò bằng than tự bao đời.
"Đây là kiểu lò nung mới ít gây ô nhiễm, không tạo ra tro và khói, rất ít bụi và đ
|
ất thải", ông Trọng cho biết ưu điểm chính của lò đốt này. Lò mới cũng giúp giảm đáng kể lượng sản phẩm bị hỏng trong quá trình nung. Tỷ lệ sản phẩm ra lò đạt tiêu chuẩn là 95%, cao hơn 30-50% so với lò bầu và lò hộp cũ đốt bằng than. Hiệu suất này có được nhờ lò gas có khả năng duy trì nhiệt độ cao hơn (1.200oC) và ổn định hơn so với lò cũ.
Chi phí xây một lò nung bằng gas (250 triệu đồng) cao gấp hơn 8 lần so với lò nung than song những chủ lò ở đây lại rất ưa chuộng công nghệ mới này. Hiện cả làng đã có 700 lò nung gas. "Tuy đầu tư ban đầu cao song xét về lâu dài, sử dụng lò gas lại tiết kiệm hơn lò than rất nhiều, bởi các chi phí chuẩn bị lò, chi phí lao động đều thấp hơn rất nhiều mà lượng thành phẩm đạt tiêu chuẩn lại cao. Chúng tôi ước tính, chi phí sản xuất một chiếc bình khi dùng lò nung gas sẽ rẻ hơn 20%, sản xuất một bộ đồ ăn sẽ rẻ hơn 60% so với dùng lò nung bằng than", ông Lê Đức Trọng lý giải.
Một điều quan trọng để các lò nung bằng khí gas có thể phổ biến ở làng nghề này là các chủ lò được hỗ trợ về vốn, kỹ thuật để chuyển đổi công nghệ lò đốt từ Dự án Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa (PECSME). Ước tính trong 7 năm thực hiện dự án, làng nghề này đã giảm được 93.161 tấn khí CO2.
Hiện ở Bát Tràng còn tồn tại khoảng 2-3% lò đốt than, rất cần được hỗ trợ, tạo điều kiện cho làng nghề chuyển đổi toàn bộ sang dùng lò nung bằng gas, đảm bảo một môi trường trong sạch, lành mạnh, hấp dẫn bước chân du khách.
Tống Minh