Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Nay, bà Thanh yêu cầu giải quyết chế độ thôi việc, Phòng hành chính của công ty tính chế độ của bà theo lương trên hợp đồng lao động (HĐLĐ) là 2.500.000 đồng/ tháng và hỗ trợ 2 năm đầu công tác với lý do năm 2009 Bảo hiểm xã hội chịu trách nhiệm chi trả cho người lao động đã có đóng phí bảo hiểm thất nghiệp.
Bà Thanh thấy cách giải quyết của công ty không thỏa đáng và đề nghị được hướng dẫn về vấn đề này.
Về vấn đề trên, Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội hướng dẫn như sau:
Tại Điều 2 Thông tư số 17/2009/TT-BLĐTBXH ngày 26/5/2009 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội sửa đổi khoản 3, mục III, Thông tư số 21/2003/TT-BLĐTBXH về cách tính tiền trợ cấp thôi việc như sau:
Tiền trợ cấp thôi việc |
= |
Tổng thời gian làm việc tại doanh nghiệp tính trợ cấp thôi việc |
x |
Tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc |
x ½ |
Trong đó:
- Tổng thời gian làm việc tại doanh nghiệp tính trợ cấp thôi việc (tính theo năm) được xác định theo khoản 3, Điều 14 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 9/5/2003 của Chính phủ, trừ thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ. Trường hợp, tổng thời gian làm việc tại doanh nghiệp tính trợ cấp thôi việc có tháng lẻ (kể cả trường hợp người lao động có thời gian làm việc tại doanh nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên nhưng tổng thời gian làm việc tại doanh nghiệp tính trợ cấp thôi việc dưới 12 tháng) thì được làm tròn như sau: Từ đủ 1 tháng đến dưới 6 tháng làm tròn thành 1/2 năm. Từ đủ 6 tháng đến dưới 12 tháng làm tròn thành 1 năm.
- Tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc là tiền lương, tiền công theo HĐLĐ, được tính bình quân của 6 tháng liền kề trước khi chấm dứt HĐLĐ, gồm tiền công hoặc tiền lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp chức vụ (nếu có).
Trường hợp bà Thanh có tổng thời gian làm việc tại công ty từ tháng 11/2006 đến hết tháng 6/2011 bằng 4 năm 7 tháng.
Căn cứ quy định tại Khoản 3, Điều 14 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 9/5/2003; Khoản 1, Khoản 3, Điều 41 Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ và Điều 2 Thông tư số 17/2009/TT-BLĐTBXH ngày 26/5/2009 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thì:
- Thời gian bà Thanh làm việc tại công ty được tính để hưởng trợ cấp thôi việc là từ tháng 11/2006 đến hết tháng 12/2008 bằng 2 năm 1 tháng, tính tròn 2 ½ năm.
- Thời gian từ tháng 1/2009 đến tháng 6/2011, bà Thanh và Công ty đã đóng bảo hiểm thất nghiệp nên thời gian này bà không được tính để hưởng trợ cấp thôi việc.
Mặc dù khi ký kết trên HĐLĐ ghi tiền lương là 2.500.000 đồng/tháng. Nhưng tiền lương thực tế khi thực hiện HĐLĐ này bà Thanh được nhận là 6.500.000 đồng/tháng. Có thể khoản tiền lương bà Thanh được nhận cao hơn mức ghi ban đầu khi ký kết HĐLĐ là do được điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu, hoặc được nâng bậc lương, được hưởng phụ cấp, mà không cần thiết phải ký kết lại hợp đồng; hoặc hợp đồng đã ký với mức lương 2.500.000 đồng là hợp đồng giả cách để giảm mức đóng bảo hiểm xã hội.
Do vậy, luật sư cho rằng khoản tiền lương 6.500.000 đồng mà công ty đã trả cho bà Thanh hàng tháng được hiểu là tiền lương theo HĐLĐ dùng làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc.
Nếu tiền lương bình quân 6 tháng liền kề trước khi chấm dứt HĐLĐ là 6.500.000 đồng thì công ty phải trả trợ cấp thôi việc cho bà Thanh là 2 ½ năm x 6.500.000 đồng x ½ = 8.125.000 đồng.
Luật sư Trần Văn Toàn
VPLS Khánh Hưng – Đoàn Luật sư Hà Nội
* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.