Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
|
Hiện nay, hiện tượng ô nhiễm môi trường xuyên biên giới đang trở thành vấn đề có tính chất quốc tế. Qua điều tra mới nhất của Viện Tài nguyên và Môi trường biển trên vùng biển ven bờ Tây Vịnh Bắc Bộ cho thấy, đã đến lúc chúng ta phải đưa ra những giải pháp cụ thể đểngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực gây ra từ hiện tượng này.
Những con số đáng báo động
Kết quả điều tra cho thấy, ô nhiễm nguồn các hệ thống sông xuyên biên giới đang là vấn đề nhức nhối nhất hiện nay. Sông Hồng là con sông liên quốc gia có lưu lượng lớn nhất trong khu vực, bắt nguồn từ vùng núi thuộc huyện Ngụy Sơn, tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Đến thành phố Lào Cai, sông Hồngnằm trọn trong lãnh thổ Việt Nam, sau đó chảy qua phía Đông Hà Nội và đổ ra biển qua cửa Ba Lạt. Hàng năm, vùng nước ven bờ cửa Ba Lạttiếp nhận từ nguồn thải sông Hồng khoảng 37,3 tỷ m3 nước ngọt trong đó có đến 232 nghìn tấn BOD, 353 nghìn tấn COD, 31 nghìn tấn nitơ, hơn 7 nghìn tấn phốt pho và 29 triệu tấn TSS (chất thải hữu cơ), hơn 4 nghìn tấn kim loại nặng, 210 tấn thuốc trừsâu, 343 tấn phân hóa học và hơn 13 nghìn tấn dầu mỡ. Nguồn thải này từ các cơ sở sản xuất công, nông nghiệp, thương mại, đô thị trên lãnh thổ Việt Nam và một phần không nhỏ từ lưu vực nằm trên lãnh thổ Trung Quốc đưa sang mà hiện thải lượng xuyên biên giới chưa có con số đánh giá chính xác cho dù chúng ta đã khá nhiều lần lập đoàn kiểm tra thượng nguồn sông Hồng.
Hiện tượng dầu tràn đã xuất hiện trong vùng biển ven bờ Tây Vịnh Bắc Bộ trong nhiều năm với quy mô lớn nhỏ khác nhau đang gây lo ngại lớn trong việc ngăn chặn, kiểm soát ô nhiễm môi trường xuyên biên giới. Từ năm 1987 đến 1997 có đến 89 vụ tràn dầu và từ năm 1997 đến 2010 có tới 50 vụ tràn dầu trên biển. Đặc biệt vụ tràn dầu tháng 2/2007 là vụ tràn dầu lớn, gây tổn thất nặng nề về mặt kinh tế đối với các tỉnh ven biển khi hiện tượng tràn dầu diễn ra trong nhiều ngày và lượng dầu thu gom được lên tớitrên 1.721 tấn.
Phá dỡ tàu cũ trong vùngbiển ven bờ Tây Vịnh Bắc Bộ cũng đang trở thành mối đe dọa lớn đối với môi trường. Theo Tổ chức Hòa Bình Xanh, đến năm 2010, có trung bình khoảng 3.000 tàu phá dỡ mỗi năm. Quá trình phá dỡ tàu cũ cũng thải ra môi trường biển nhiều chất độc hại như thủy ngân, đồng, chì, kém, sắt và phóng xạ, hợp chất xyanua hữu cơ và cặn bể chứa nước rửa tàu có nhiều vi khuẩn và sinh vật ngoại lai…
Vấn đề chuyên chở chất thải xuyên biên giới cũng là vấn đề "nóng" tại các cảng hiện nay khi một số doanh nghiệp đã vô tình hoặc cố ý nhập khẩu trái phép các chất gây ô nhiễm môi trường. Hiện tại cảng Hải Phòng đang tồn tại khoảng gần 7.000 tấn "thép phế liệu",chủ yếu là chất thải dạng vỏ lon, hộp, thùng kim loại đã qua sử dụng chứa nước giải khát, thực phẩm, dầu mỡ, sơn, hóa chất, dung môi hữu cơ…
Những việc "cần làm ngay"
Theo ông Lưu Văn Diệu, Viện Tài nguyên và Môi trường biển, người trực tiếp điều tra nghiên cứu vấn đề ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, hiện hành lang pháp lý để xử lý những vụ ô nhiễm môi trường xuyên biên giới còn rất yếu (có tới 77% sự cố tràn dầu trên hải phận nước ta chưa được bồi thường hoặc đang trong quá trình giải quyết), vì vậy hành động "cần làm ngay" lúc này là nâng cao năng lực quản lý Nhà nước từ việc hoàn thiện khung pháp lý về vấn đề này. Để thực hiện,trước hết các cơ quan chức năng cần tăng cường tiến hành quan trắc đánh giá các vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới tại các vùng biển trên cơ sở hoạt động của các Trạm Quan trắc môi trường quốc gia tại khu vực ven biển và biên giới tiếp giáp với các nước láng giềng. Bổ sung thêm một số thông số quan trắc trong vùng biển ven bờ như tình trạng rác thải, váng dầu trong khu vực. Cùng với đó là xây dựng cơ sở dữ liệu để quản lý vấn đề môi trường xuyên biên giới, làm cơ sở đánh giá tình trạng và xu thế biến động môi trường trong khu vực.
Để kiểm soát, ngăn ngừa tác động xấu của tình trạng ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, nhất thiết phải nâng cao nhận thứcvề tác hại của các vấn đề môi trường xuyên biên giới đối với môi trường sinh thái, sức khỏe con người và kinh tế xã hội; tăng cường hợp tác giữa các nước trong khu vực và các tổ chức quốc tế để từng bước giảm thiểu tác động bất lợi của ô nhiễm. Ngoài ra, cũng cần tham gia các Công ước quốc tế và khu vực để hợp tác, ngăm ngừa, giảm thiểu tác động tiêu cực. Đặc biệt cần tăng cường thể chế, luật pháp có liên quan nhằm ngăn chặn hiện tượng ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, trong đó tập trung vào các biện pháp ngăn ngừa việc vận chuyển trái phép chất thải, du nhập sinh vật ngoại lai hay hành động cố tình hoặc vô ý gây ô nhiễm môi trường xuyên biên giới.
Kim Liên