Ngành công nghiệp thâm dụng lao động vẫn còn chiếm ưu thế
Theo số liệu của Sở Công Thương, ngành công nghiệp thâm dụng lao động như dệt may, giày dép vẫn đang có mức tăng trưởng cao qua các năm và giữ vị trí số một trong cơ cấu ngành công nghiệp địa phương hiện nay.
* Công nghiệp thâm dụng lao động tiếp tục tăng trưởng
Trong giai đoạn 2006-2009, cơ cấu lao động giữa các ngành công nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch nhưng rất chậm. Ngành công nghiệp dệt may, giày dép vẫn tiếp tục có lao động chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu, chiếm gần 50% cơ cấu toàn ngành công nghiệp. Trong cả giai đoạn, chỉ giảm 0,2%, tỷ trọng từ 46,2% năm 2005 chuyển dịch xuống còn 46% năm 2009, 8 nhóm ngành còn lại chỉ chiếm hơn 50% trong cơ cấu lap động toàn ngành và có cơ cấu lao động chuyển dịch không lớn. Mặc dù sự chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm nhưng năng suất lao động có sự thay đổi theo hướng ngày càng tăng, các ngành thâm dụng lao động trên địa bàn tỉnh trong giai 2006-2010 vẫn được duy trì.
Dệt may là ngành thâm dụng lao động nhiều nhất so với cơ cấu toàn ngành
Ngành dệt may, giày dép có mức thâm dụng lao động cao nhất trong các ngành công nghiệp, mức tăng trưởng lao động bình quân giai đoạn 2006-2009 là 7,8%/năm. Cơ cấu lao động có xu hướng giảm dần từ 46,2% năm 2005 xuống còn 46% năm 2009. Trong đó, tỷ trọng cao nhất là ngành giày dép, chiếm 28,9%, xếp vị trí thứ 2 là ngành may mặc chiếm 10,9%, sau cùng là ngành dệt với 6,3%.
Trong khi trình độ nguồn nhân lực thuộc nhóm ngành này lại thấp nhất so với các ngảnh công nghiệp khác. Lao động có trình độ đại học trở lên chỉ chiếm 1,4% lao động của ngành. Đây cũng là ngành có năng suất lao động thấp thứ 2 sau ngành chế biến gỗ, năng suất lao động của ngành đạt từ 35,5 triệu đồng/người năm 2005 tăng lên 64,8 triệu đồng/người năm 2009.
Gỗ cũng là ngành có nhiều lao động
Ngành chế biến gỗ là ngành có mức thâm dụng lao động xếp thứ 2 sau ngành giày dép, mức tăng trưởng lao động bình quân giai đoạn 2005-2009 là 9,8%/năm, cơ cấu lao động có xu hướng tăng tỷ trọng từ 13,2% năm 2005 lên 14,2% năm 2009. Trong đó, sản xuất sản phẩm từ gỗ và lâm sản khác chiếm 3,5%. Trình độ nguồn nhân lực của ngành thấp thứ 2 sau may mặc và giày dép và có năng suất lao động thấp nhất so với các ngành công nghiệp khách, năng suất lao động của ngành từ 31,6 triệu đồng/người năm 2005 tăng lên 50,7 triệu đồng/người năm 2009.
Cuối cùng ngành chế biến nông sản, thực phẩm là ngành có mức thâm dụng lao động xếp thứ 3, mức tăng trưởng lao động bình quân giai đoạn 2006-2009 là 8,2%/năm, cơ cấu lao động tương đối ổn định, duy trì ở mức 10,5% từ năm 2005 đến nay. Trình độ nguồn nhân lực của ngành cao thứ 3 sau ngành điện – nước; hóa chất, su, plastic và có năng suất lao động xếp vị trí thứ 2 sau ngành điện – nước. Năng suất lao động của ngành đạt từ 207,9 triệu đồng/người năm 2005 tăng lên 327,4 triệu đồng/người năm 2009.
* Đầu tư lớn, hiệu quả thấp
Ngành công nghiệp dệt may, giày dép hiện đang là ngành có tỷ trọng vốn đầu tư lớn nhất trong cơ cấu vốn đầu tư toàn ngành công nghiệp giai đoạn 2006-2009. Trong đó ngành dệt có vốn đầu tư lớn nhất, chiếm 62% ngành dệt may, giày dép, kế tiếp là ngành giày dép với 31%, ngành may 7%.
Trong cơ cấu đầu tư ngành dệt may, giày dép có xu hướng giảm trong cơ cấu vốn đầu tư từ 32,2% năm 2005 xuống còn 26,6% trong năm 2009 so với toàn ngành công nghiệp của tỉnh. Mặc dù là ngành có tỷ trọng vốn đầu tư lớn nhất toàn ngành công nghiệp nhưng mức vốn đầu tư bình quân cho một lao động năm 2009 chỉ đạt 175,7 triệu đồng, thấp thứ 2 sau ngành chế biến gỗ.
Đây cũng là ngành có hiệu quả đầu tư thấp, bình quân lợi nhuận/vốn của ngành đạt 1,5%, thấp hơn toàn ngành (toàn ngành 6%), và thấp thứ 2 sau ngành điện – nước. Ngành dệt có hiệu quả đầu tư thấp nhất nhưng vốn đầu tư lại lớn nhất, bình quân lợi nhuận/vốn ngành dệt đạt 0,9%, do một số doanh nghiệp trong ngành vẫn còn đang ở giai đoạn đầu, và ngành có thời gian thu hồi vốn chậm, lợi nhuận chưa có nên ảnh hưởng toàn ngành dệt.
Chế biến thịt gà tại nhà máy D&F
Ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm là ngành có tỷ trọng vốn đầu tư lớn thứ 3 sau ngành dệt may, giày dép và ngành cơ khí trong cơ cấu vốn toàn ngành công nghiệp và có xu hướng giảm trong cơ cấu vốn đầu tư từ 17,2% năm 2005 xuống còn 16,7% năm 2009. Trong đó, mức trang bị vốn đầu tư bình quân cho một lao động năm 2009 đạt 109 triệu đồng/lao động, thấp nhất trong toàn ngành. Hiệu quả đầu tư của ngành cũng đạt thấp, bình quân lợi nhuận trên vốn của ngành đạt 4,1% thấp hơn mức bình quân chung của toàn ngành (đạt 6%).
Ngành công nghiệp chế biến gỗ và sản xuất đồ gỗ có tỷ trọng vốn đầu tư xếp thứ 6 trong cơ cấu vốn đầu tư toàn ngành công nghiệp giai đoạn 2006-2009 và có xu hướng giảm trong cơ cấu vốn đầu tư từ 5,6% năm 2005 xuống còn 5,1% năm 2009. Trong đó mức trang bị vốn đầu tư bình quân cho một lao động năm 2009 đạt 109 triệu đồng/lao động, thấp nhất toàn ngành. Về hiệu quả đầu tư của ngành cũng đạt thấp, bình quân lợi nhuận/vốn của ngành 4,1. thấp hơn so với mức bình quân của toàn ngành đạt 6%.
Ngành công nghiệp giấy và sản phẩm từ giấy có tỷ trọng vốn đầu tư thấp nhất trong cơ cấu vốn đầu tư toàn ngành công nghiệp và có xu hướng giảm trong cơ cấu vốn đầu tư từ 5,6% năm 2005 xuống còn 5,1% năm 2009, trong đó mức trang bị vốn đầu tư bình quân cho một lao động năm 2009 đạt 274,4 triệu đồng/lao động, thấp thứ 3 trong toàn ngành. Bình quân lợi nhuận trên vốn của ngành của ngành đạt 4,4%, thấp hơn so với mức bình quân của toàn ngành đạt 6%.
Nhìn chung, các ngành công nghiệp còn mang nặng gia công, lắp ráp, các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép; chế biến thực phẩm; chế biến gỗ nhằm tận dụng lao động rẻ để thực hiện gia công, xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng thấp, vẫn còn hấp dẫn đối với nhà đầu tư, nhằm khai thác lợi thế lao động rẻ để thực hiện gia công xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng thấp, vẫn còn hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, nhằm khai thác lợi thế về lao động và tài nguyên khoáng sản. Tuy nhiên, lợi thế giá nhân công rẻ, tài nguyên khoáng sản đang giảm dần trong thời gian tới. Điều này cho thấy, các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, các ngành công nghiệp tạo ra sản phẩm có hàm lượng công nghệ và các giá trị gia tăng cao chưa thật sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Đây là một khó khăn lớn của tỉnh đối với việc phát triển công nghiệp theo hướng thu hút đầu tư các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, các ngành công nghiệp tạo ra sản phẩm có hàm lượng công nghệ và có giá trị gia tăng cao trong thời gian tới.
N. Thương