Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
GDNN không chỉ trang bị kỹ năng nghề để có việc làm mà còn góp phần vào phát triển bền vững
Vai trò, sứ mệnh của GDNN trong bối cảnh mới
Theo chuyên gia giáo dục, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, năm 2015 đánh dấu giai đoạn phát triển mới của GDNN, khi thế giới chuyển từ mục tiêu Thiên niên kỷ sang Mục tiêu phát triển bền vững, đòi hỏi giáo dục phải "cung cấp giáo dục có chất lượng, công bằng và bao trùm ở mọi cấp học". GDNN không chỉ trang bị kỹ năng nghề để có việc làm mà còn góp phần vào phát triển bền vững thông qua bình đẳng giới, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Hội nghị Thượng đỉnh Chuyển đổi giáo dục năm 2022 kêu gọi thay đổi căn bản để giáo dục trở thành động lực góp phần kiến tạo một thế giới hòa bình, công bằng, bền vững. Theo Chiến lược GDNN 2022–2029 của UNESCO, GDNN là động lực then chốt của "chuyển đổi kép – chuyển đổi số và chuyển đổi xanh" và phải chuẩn bị lực lượng lao động sẵn sàng cho tương lai.
Ở Việt Nam, nhận thức cũng có bước phát triển mạnh mẽ. Nếu Luật GDNN 2014 chỉ xác định GDNN là bộ phận đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh, thì các báo cáo GDNN từ 2015 đến nay và Kế hoạch hành động quốc gia 2030 đã đặt GDNN ở vai trò then chốt trong phát triển nguồn nhân lực, gắn với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội, bền vững môi trường, đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, TS. Phạm Đỗ Nhật Tiến chỉ ra những hạn chế lớn: chất lượng và hiệu quả đào tạo còn thấp, cơ cấu ngành nghề chưa phù hợp, phương thức đào tạo chậm đổi mới, thông tin thị trường lao động chưa hiệu quả, mức độ tham gia của doanh nghiệp còn hạn chế, và cơ chế tài chính có nguy cơ làm tăng bất bình đẳng trong tiếp cận GDNN chất lượng cao.
TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến cho biết tự chủ phải được mở rộng toàn diện trên mọi lĩnh vực
Tự chủ đầy đủ, toàn diện – nội hàm và mục tiêu
TS. Phạm Đỗ Nhật Tiến nhấn mạnh: "Tự chủ không có mục đích tự thân. Mục đích của tự chủ là nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo trong phạm vi vai trò, sứ mệnh và nhiệm vụ được trao cho cơ sở GDNN".
Với tinh thần Nghị quyết 71, tự chủ phải được mở rộng toàn diện trên mọi lĩnh vực: đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổ chức, nhân sự, tài chính, hợp tác doanh nghiệp và hợp tác quốc tế. Đồng thời, mức độ tự chủ phải "không bị giới hạn bởi mức độ tự chủ tài chính hay quy định hành chính", cho phép cơ sở GDNN chủ động ra quyết định và linh hoạt ứng phó với biến động thị trường.
Ông đề xuất các mục tiêu gắn liền với từng lĩnh vực:
Đào tạo và nghiên cứu khoa học: chuyển từ mô hình đào tạo thiên về nhà trường sang mô hình kết nối doanh nghiệp, phát triển hệ thống mở, liên thông, đa dạng, hiện đại, gắn chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.
Tổ chức và nhân sự: xây dựng bộ máy tinh gọn, cùng mô hình quản trị mới, không tổ chức hội đồng trường, tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của tổ chức đảng.
Tài chính: đa dạng hóa nguồn lực, thu hút đầu tư xã hội, hình thành quỹ tài trợ, huy động vốn cộng đồng, ưu tiên tín dụng cho GDNN, thực hiện công bằng xã hội.
Hợp tác doanh nghiệp và quốc tế: thúc đẩy hợp tác nhà trường-doanh nghiệp, tăng cường đào tạo tại doanh nghiệp, nhất là đào tạo kỹ năng công nghệ cao, khuyến khích doanh nghiệp thành lập cơ sở GDNN, đẩy mạnh liên kết đào tạo, trao đổi nhà giáo, sinh viên.
Cơ sở GDNN minh bạch tài chính, quản lý và kiểm định độc lập để tạo niềm tin xã hộ
Tự chủ gắn liền trách nhiệm giải trình
TS. Phạm Đỗ Nhật Tiến nhấn mạnh rằng giữa tự chủ và trách nhiệm giải trình luôn tồn tại mối quan hệ "tương hỗ và cân bằng". Quyền tự chủ càng cao, yêu cầu giải trình càng toàn diện. Khi được trao quyền tự chủ đầy đủ, các cơ sở GDNN không chỉ được quyết định chương trình, tổ chức, tài chính mà còn phải chứng minh với Nhà nước và xã hội rằng họ đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Điều đó đòi hỏi mỗi cơ sở phải xây dựng và công bố chiến lược phát triển rõ ràng, xác định tiêu chí cam kết chất lượng, hệ thống chỉ số đánh giá (KPI) cụ thể cho từng lĩnh vực.
Giải trình không chỉ dừng lại ở các báo cáo hành chính định kỳ, mà phải dựa trên bằng chứng: tỷ lệ tốt nghiệp, tỷ lệ có việc làm, mức độ hài lòng của doanh nghiệp, hiệu quả chi phí, các kết quả đổi mới sáng tạo và tác động xã hội. Cơ sở GDNN cũng phải công khai minh bạch tài chính, phương thức quản lý và sẵn sàng tham gia kiểm toán, kiểm định chất lượng độc lập nhằm nâng cao uy tín và tạo niềm tin cho các bên liên quan. Để làm được điều này, cơ sở GDNN cần xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu đầy đủ và cập nhật – từ thông tin giảng dạy, nghiên cứu, quy mô phát triển đến kết quả đầu ra – để chứng minh sự tiến bộ theo thời gian và trong so sánh với các trường khác.
Mô hình quản trị mới: Tinh gọn nhưng cần kiểm soát quyền lực
Một thay đổi quan trọng được Nghị quyết 71 xác lập là chuyển từ mô hình hội đồng trường – vốn là cơ quan quyền lực cao nhất trong các cơ sở giáo dục tự chủ – sang mô hình mới "không tổ chức hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục công lập, thực hiện bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục".
Theo TS. Phạm Đỗ Nhật Tiến, cách tiếp cận này tạo sự thống nhất trong chỉ đạo, giảm tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, đồng thời nâng cao hiệu lực điều hành, giúp nhà trường phản ứng nhanh với yêu cầu của thị trường lao động.
Đồng thời, để mô hình này phát huy hiệu quả, cần thiết kế cơ chế cân bằng quyền lực, tăng cường giám sát và kiểm soát nội bộ, đồng thời bảo đảm người đứng đầu được đào tạo bài bản về quản trị hiện đại, kỹ năng lãnh đạo và trách nhiệm giải trình.
Lộ trình cẩn trọng, hỗ trợ và giám sát hiệu quả – chìa khóa phát triển bền vững GDNN.
Định hướng chính sách
TS. Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng, Nghị quyết 71 là bước đi chiến lược nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, tạo điều kiện để các cơ sở GDNN chủ động thích ứng với thời đại mới. Nhưng để chủ trương này thực sự đi vào cuộc sống, cần một quá trình thể chế hóa đồng bộ: luật mới phải quy định rõ ràng phạm vi và mức độ tự chủ, trách nhiệm giải trình tương ứng; vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu phải được cụ thể hóa để vừa đảm bảo sự lãnh đạo chính trị, vừa bảo đảm quản trị chuyên nghiệp; phân cấp, phân quyền trong bộ máy lãnh đạo, quản trị, quản lý của cơ sở GDNN cùng các cơ chế kiểm soát quyền lực đi đôi với phát huy dân chủ cơ sở.
Song song với đó là việc tái cơ cấu hệ thống GDNN, phân cấp mạnh mẽ về địa phương, xây dựng hệ thống thông tin quản lý (TVET-MIS) cùng hệ thống KPI làm nền tảng cho quản trị dựa trên kết quả đầu ra. Cùng với đào tạo, bồi dưỡng năng lực quản trị hiện đại và năng lực số, việc xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội là điều kiện tiên quyết để GDNN phát triển bền vững.
"Cần có một lộ trình cẩn trọng, đi kèm cơ chế hỗ trợ và giám sát hiệu quả", ông nhấn mạnh, "để quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện thực sự trở thành động lực nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và hội nhập quốc tế".
Thu Trang