Tại vùng biển và đới bờ Việt Nam đã phát hiện được 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình. Chúng thuộc về 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó có 3 vùng là Móng Cái-Đồ Sơn, Hải Vân-Đại Lãnh và Đại Lãnh-Vùng Tàu có mức đa dạng sinh học cao hơn các vùng còn lại. Trong tổng loài được phát hiện có khoảng 6.000 loài động vật đáy, 2.038 loài cá với trên 100 loài cá kinh tế, 225 loài tôm, 5 loài rùa, 94 loài thực vật ngập mặn...Tính toán sơ bộ cho thấy diện tích mặt nước lợ ở vùng bờ biển có khả năng nuôi trồng thủy sản lên tới 1.130.000ha. Đồng thời, hệ sinh thái vùng bờ biển gồm rừng ngập mặn, rong tảo, cỏ biển và các rạn san hô còn là bức tường vững chắc bảo vệ bờ biển khỏi tác động của phá hủy của sóng bão, là "cạm bẫy" tự nhiên để sàng lọc các chất ô nhiễm...
Tuy vậy, chất lượng môi trường biển và vùng ven bờ đang bị tiếp tục suy giảm bởi dầu, kẽm và chất thải sinh hoạt, nên dẫn đến chất lượng trầm tích đáy biển-nơi cư trú của nhiều loài sống dưới đáy cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Hàm lượng hóa chất bảo vệ thực vật chủng Andrin và Endrin của các mẫu sinh vật đáy các vùng cửu sông ven biển phía Bắc đều cao hơn giới hạn cho phép. Đa dạng sinh học động vật đáy ven biển miền Bắc và thực vật nổi ở miền Trung suy giảm rõ rệt. Hiện tượng thủy triều đỏ và bùng phát tảo nở hoa xuất hiện thường xuyên hơn ven bờ biển miền Trung như Nha Trang và Đà Nẵng.
Đặc biệt, từ nhu cầu khai thác gỗ, củi và mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản nên diện tích rừng ngập mặn ngày càng bị thu hẹp. Tốc độ mất rừng ngập mặn ước tính hàng năm lên tới 15.000ha, làm cho số lượng sinh vật phù du và sinh vật dưới đáy làm thức ăn cho các loài thủy sản bị giảm đáng kể. Năng suất nuôi tôm quảng canh nếu năm 1980 đạt tới 250kg/ha, nay chỉ còn 80kg/ha. Trước đây cứ 1 ha rừng ngập mặn có thể khai thác 1 tấn thủy sản giờ chỉ thu được 1/20 so với trước.
Theo báo cáo của Viện Tài nguyên Thế giới, khoảng 80% rạn san hô và thảm cỏ biển Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở tình trạng rủi ro cao. Vùng ven bờ đã và đang bị khai thác nguồn lợi quá mức cho phép, tuy tổng sản lượng đánh bắt thủy sản tăng, nhưng sản lượng của một đơn vị đánh bắt hay hiệu xuất khai thác (tấn/CV/năm) hoặc giữ nguyên hoặc giảm từ 0,92 tấn/CV/năm xuống còn 0,34 tấn/CV/năm. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm dần về trữ lượng, sản lượng và kích thước cá đánh bắt được. Chỉ tính trong vòng 10 năm trở lại đây, trữ lượng cá đáy đã giảm trên 30% và có khoảng 85 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau, trong đó có nhiều loài đang là đối tượng bị tập trung khai thác.
Ngay từ bây giờ, Việt Nam cần khẩn trương lập kế hoạch quản lý tổng hợp vùng bờ biển theo hướng quản lý theo ngành, nhất là quản lý theo vấn đề. Đây là quá trình quản lý nhằm giải quyết một vài vấn đề chuyên biệt xảy ra đã và đang đe dọa đến các nguồn tài nguyên và môi trường vùng bờ, nhằm ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ nguồn lợi hải sản vùng bờ biển đang bị suy giảm nghiêm trọng.
Văn Hào