Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Kỷ niệm 97 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925-21/6/2022)
… Tháng 8/1964, tốt nghiệp Khoa Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi tình nguyện nhập ngũ, rồi được điều về Trung đoàn 673, Quân khu Tây Bắc. Sau 3 tháng huấn luyện chiến sĩ mới, tôi cùng đồng đội được cử sang phục vụ chiến đấu tại chiến trường Lào.
Năm 1972, do yêu cầu của Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng, tôi được chuyển về nước, làm phóng viên chương trình Phát thanh Quân đội nhân dân. Như vậy là từ một giáo viên dạy văn chuyển sang làm phóng viên báo nói, tôi không tránh khỏi bỡ ngỡ ban đầu. Nghề này không chỉ phải viết mà còn phải học cách thu âm, thu phát lời nói, chuyển băng, trích băng và nhiều khi nói trước máy. Vạn sự khởi đầu nan, nhờ nỗ lực học hỏi đồng nghiệp nên tôi nhanh chóng nhập cuộc…
Tôi nhớ nhất trưa 30/4/1975, khi có mặt ở hồ Hoàn Kiếm để viết và thu âm phản ánh không khí vui mừng của toàn dân trong ngày vui toàn thắng, có bà mẹ xúc động vừa nói vừa khóc: "30 năm nô lệ, khổ đau, hy sinh, mất mát, mới có ngày hôm nay". Bài phóng sự thu thanh này được phát ngay trên Đài Tiếng nói Việt Nam lúc 21h cùng ngày.
Thời điểm này, việc tuyên truyền đời sống xã hội ở các vùng mới giải phóng rất cần thiết. Tôi được cơ quan cử vào Thành phố Hồ Chí Minh, xuống Cần Thơ viết các phóng sự đời sống: "Minh Honđa", "Tai mắt nhân dân", "Ngôi nhà bên kia đường", "Cháu là đứa trẻ mồ côi", "Bên kia bến Ninh Kiều", "Xóm chài Cần Thơ" rồi gửi ngay về Đài Tiếng nói Việt Nam.
Tiếp đó, tôi tới thăm, viết bài về Sư đoàn 320, đơn vị từng tiêu diệt căn cứ Đồng Dù (Củ Chi) do Chuẩn tướng Lý Tòng Bá của quân đội Sài Gòn chỉ huy, với đầy đủ phương tiện chiến tranh hiện đại; hệ thống phòng thủ liên hoàn, kiên cố.
Lúc này, do dịch sốt xuất huyết hoành rất mạnh nên Sư đoàn Phó Chính trị Nguyễn Bổng tiếp chuyện phóng viên phải ngồi trong màn giữa ban ngày. Tôi khẩn trương lấy tài liệu, viết phóng sự dài kì về Anh hùng Nguyễn Vi Hợi: "Sóc đường Bảy" và "Những ngày sống với du kích Gia Rai"…
Năm 1978, lúc xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam, dù chỉ còn ít ngày nữa là đến Tết Nguyên đán nhưng Cục trưởng Cục Tuyên huấn lệnh cho tôi và phóng viên Cao Minh Việt phải đi ngay vào Thành phố Hồ Chí Minh thường trú để kịp thời phản ánh về cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của quân và dân ta.
"Quân lệnh như sơn", chúng tôi nghiêm chỉnh chấp hành, vững bước lên xe… Chúng tôi đến Tây Ninh, An Giang, Hà Tiên, phản ánh quân dân ta chiến đấu chống bè lũ Khmer Đỏ Pol Pot bạo tàn.
Đến Sư đoàn 341 (ở Tây Ninh và Hà Tiên), chúng tôi đã chứng kiến trận Thạch Động khi quân Pol Pot thua đau, phải rút về nước… Cũng trong dịp này, chúng tôi tận mắt chứng kiến tội ác man rợ của bè lũ diệt chủng Pol Pot đối với đồng bào ta ở 14 xã trong tỉnh An Giang, nhất là tội ác của chúng gây ra với nhân dân xã Vĩnh Ngươn (nay thuộc TP. Châu Đốc). Một xã có hơn 2.000 dân nay nhà cửa bị đốt cháy hoặc bị phá tan hoang. Bà con bị địch tàn sát theo nhiều cách khác nhau… Máu đồng bào Vĩnh Ngươn chảy thành vũng trên đường làng, ngõ xóm.
Chúng tôi, trong đó có nhiều nhà báo nước ngoài, đến viếng những nạn nhân ở xã Vĩnh Ngươn, ai nấy mắt đỏ hoe, lặng lẽ ghi âm, ghi hình, lấy tài liệu để cùng tố cáo tội ác man rợ của bọn diệt chủng trước công luận trong nước và thế giới…
Ngày 17/2/1979, khi chiến tranh biên giới phía bắc xảy ra, Cục Tuyên huấn điều tôi về Hà Nội làm "phóng viên chiến trường" cho Ban Truyền hình Quân đội. Chuyển sang làm báo hình, một lần nữa, tôi lại phải tự học, học từ đồng nghiệp, học qua các chuyến đi thực tế.
Từ ngày thành lập (20/9/1975), Truyền hình Quân đội còn thiếu nhân lực, nghèo nàn kỹ thuật, trang bị. Ban Biên tập chúng tôi có hơn chục người, từ Phát thanh Quân đội chuyển sang, nên phải tự học tất tần tật - làm kịch bản, đạo diễn, quay phim, viết lời bình. Tất cả làm việc trong căn phòng 16 m2, nhà cấp 4, chưa mưa đã ngập. Vật tư chỉ có 2 máy quay phim nhựa đen trắng 16 ly, còn phần lớn nhờ máy móc, kỹ thuật của Đài Truyền hình Việt Nam.
Lúc ấy, thời lượng phát sóng của chúng tôi trên VTV1 là 30 phút/tuần, rồi phấn đấu lên cả VTV3 - 30 phút và trên VTV2 cũng 30 phút/tuần. Như vậy, một tuần chúng tôi phát sóng được 90 phút rồi sau đó đưa thêm 10 phút phát ở mục "Nhắn tìm đồng đội", tổng cộng cả thảy, phát được 100 phút/tuần. Chúng tôi coi đó là một thành công.
Để có thời lượng phát sóng như trên, phóng viên chúng tôi phải làm việc hết công suất; nhất là khi chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc diễn ra ác liệt ở 6 tỉnh: Hà Tuyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu.
Ở mặt trận này, chúng tôi chứng kiến đủ cả: Nhà cửa, kho tàng, trường học… của ta bị tàn phá; dân thường bị sát hại, và cả tấm gương anh dũng hy sinh của nhiều đồng đội, như Hoàng Thị Hồng Chiêm, người con gái tuổi mới đôi mươi, hôm trước lên thăm người yêu ở đồn Pò Hèn, Quảng Ninh, hôm sau tiếp đạn, cầm súng chiến đấu và anh dũng hy sinh…
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, phóng viên báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng, đội ngũ nhà báo quân đội chúng tôi đã luôn nỗ lực phấn đấu làm tròn nhiệm vụ, đưa đơn vị ngày càng phát triển. Truyền hình Quân đội đã xây dựng được nhiều chương trình như: "Nhắn tìm đồng đội", "Chuyện của chúng tôi", "Chiến sĩ sinh hoạt văn hóa-văn nghệ"… được khán giả đánh giá cao; được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất, hạng Nhì.
Thời gian qua đi, trong thời kỳ đất nước đổi mới, các thế hệ tiếp bước chúng tôi đã trưởng thành vượt bậc: Xây dựng được Trung tâm Quốc phòng Việt Nam, gồm 23 tầng, hơn 6.000 m2, có máy móc, thiết bị kỹ thuật hiện đại ở địa chỉ 163 Xã Đàn, Hà Nội.
Cơ sở khang trang này khiến chúng tôi hết sức tự hào về sự lớn mạnh của Truyền hình Quân đội nhân dân, nay là Trung tâm Quốc phòng Việt Nam, vì có công sức của mình đóng góp từ những ngày đầu…
Nhà báo Chi Phan