• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Nhớ ghi chiến công của Đại đội pháo cao xạ 612

Sau kết thúc khóa huấn luyện về kỹ chiến thuật phòng không được mở lớp ở Ngòi Liễn, Đoan Hùng, Phú Thọ. Các học viên được lệnh lên Cao Bằng để tiếp nhận pháo cao xạ 37 mm do Liên Xô chi viện và làm nhiệm vụ bảo vệ cầu Tà Lùng thuộc huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, là nơi cửa khẩu nối liền với nước bạn Trung Quốc, nơi tiếp nhận hàng viện trợ của các nước XHCN cho ta để kháng chiến chống pháp.

22/12/2011 14:16
Ngày 1-5-1951, Đại đội 612 pháo cao xạ được thành lập ở Tà Lùng, do đồng chí Nguyễn Văn Mưu làm Đại đội trưởng, đồng chí Trần Thọ làm Đại đội phó, đồng chí Bùi Văn Số làm Chính trị viên, trực thuộc Bộ Tổng tham mưu, được trang bị 4 khẩu pháo cao xạ 37 ly và 4 khẩu trọng liên 12,7 ly, sau lại thay bằng 6 khẩu Mắc Xim của Đức bắn đạn cỡ 7,9 ly. Được sự đồng ý của Trung Quốc, Đại đội bố trí trận địa trên đất bạn. Sau chiến dịch Biên Giới năm 1950 toàn thắng, ta giải phóng vùng biên giới Đông Bắc, viện tiếp tế lương thực, vũ khí từ Liên Xô, Trung Quốc sang nước ta đều qua cầu Tà Lùng vào Cao Bằng theo đường số 3 xuống Thái Nguyên phục vụ các chiến dịch ở Trung Du, Tây Bắc, Điện Biên Phủ. Địch thường xuyên cho máy bay trinh sát, bắn phá đường tiếp tế của ta và định phá sập cầu Tà Lùng.

Ngày 2-1-1952, trên đường đi công tác, Bác Hồ đã đến thăm và tặng quà cho Đại đội, động viên cán bộ chiến sĩ luyện tập tốt, làm chủ vũ khí mới, tiết kiệm đạn, phải đoàn kết với nhân dân ta và nhân dân nước bạn, khi nào bắn rơi máy bay thì báo cho Bác biết, Bác sẽ khen thưởng. Thực hiện lời dạy của Bác với tinh thần quyết chí lập công, ngày 5-3-1952, Đại đội đã bắn rơi chiếc máy bay Bia Cát biệt danh là “Gấu Mèo” máy bay bốc cháy rơi xuống gầm cầu Tà Lùng, ta thu được 4 khẩu CaNông 20 ly, một khẩu súng ngắn P38 của tên phi công đã chết cháy. Ngày hôm sau tờ Nhật báo Quảng Tây (Trung Quốc) đã đăng bài mới về đơn vị phòng không của quân đội nhân dân Việt Nam đã bắn rơi một “chiến đầu cơ của Pháp ở vùng biên giới hai nước Việt Trung”. Đơn vị đã viết thư báo công với Bác, Bác Hồ đích thân đánh máy một bức thư ngắn gọn gửi Đại đội 612. Bác viết “Bác rất vui khi nhận được thư báo công của các chú, như vậy các chú đã thực hiện được mong ước của Bác. Bác đề nghị lên Chính phủ khen thưởng huân chương cho đơn vị. Riêng Bác thưởng cho các chú một con bò để khao quân. Đơn vị đã nhận được Huân chương chiến công hạng nhất.

Sau năm 1953, một nửa đơn vị Đại đội 612 được chuyển về làm nòng cốt thành lập 2 Tiểu đoàn phòng không số 383, 385, Trung đoàn phòng không 367. Còn Đại đội 612 tiếp tục bảo vệ cầu Tà Lùng cho đến ngày chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954.

Ngày 7-5-1954, Đại đội chuyển về Khu thành tiểu đoàn 304. Đại đội 612 đổi phân hiệu là Đại đội 3 do đồng chí Lê Hữu Mai làm Đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Viết Xuân làm Chính trị viên Đại đội, chiến đấu ở Quảng Bình bắn rơi nhiều máy bay địch. Anh Nguyễn Viết Xuân bị thương ba lần vẫn không rời vị trí chiến đấu. Trước lúc hy sinh anh còn dồn sức động viên đồng đội: “ Hãy nhằm thẳng vào quân thù mà bắn” và Đại đội này về sau được mang tên Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân.

Nguyễn Xuân Toàn (Sưu tầm)