Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Hai năm qua, người dân xã Ma Cooih , huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam được nhận tiền từ nguồn chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) để tham gia bảo vệ rừng, nhưng thực tế họ không hề biết rừng ở đâu để bảo vệ!
Giảm chênh lệch
Khi triển khai xây dựng dự án Thủy điện A Vương, đời sống của nhiều hộ dân trong xã bị xáo trộn, phải chuyển đến nơi tái đinh cư (TĐC) ở vùng đất mới nhưng lại thiếu trầm trọng đất sản xuất. Theo thống kê, số hộ nghèo ở các khu TĐC trên địa bàn xã này chiếm tỷ lệ khá cao, nhất là thôn A Zớ thuộc xã Ma Cooih chiếm hơn 95% hộ nghèo. Vì thế, người dân rất phấn khởi khi hưởng lợi từ DVMTR.
Ban Quản lý rừng phòng hộ A Vương cho biết, đơn vị đã ký 148 hợp đồng khoán BVR theo kế hoạch của dự án 5 triệu héc ta rừng với thời hạn 5 năm (2006-2010) cho 259 hộ thuộc 5 thôn trong xã với tổng diện tích hơn 3.246ha. Bình quân mỗi hộ nhận 12,5ha. Trong đó, diện tích khoán bình quân của khu TĐC Cútchrun là 15,26ha/hộ, khu TĐC Pache Palanh 10,39ha/hộ; hộ nhận khoán nhiều nhất 30ha. Năm 2010, đơn vị đã chi trả hơn 276 triệu đồng cho các hộ nhận khoán BVR với đơn giá bình quân hơn 85 nghìn đồng/ha/năm. Bình quân mỗi hộ nhận khoảng 1 triệu đồng/năm.
Theo ông Phan Sỹ Hùng – Giám đốc Chi cục Lâm nghiệp tỉnh, đến thời điểm này, do Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng tỉnh (đơn vị đề xuất cơ chế chi trả, lập danh sách theo dõi các đối tượng phải trả tiền DVMTR theo Nghị định số 99) chưa thành lập, nên việc xác định số tiền phải chi trả DVMTR của các doanh nghiệp thủy điện chưa được tiến hành. Tuy nhiên, với đơn giá theo quy định 20 đồng/kWh, số tiền DVMTR các nhà máy thủy điện phải chi trả (dựa theo sản lượng điện do các nhà máy cung cấp) khá lớn. Cụ thể Thủy điện A Vương phải chi trả hơn 20,6 tỷ đồng/năm, Thủy điện Sông Bung 6 hơn 37,4 tỷ đồng/năm và thủy điện Sông Cùng (Đại Lộc) hơn 4 tỷ đồng/năm. Ngoài ra, việc chi trả DVMTR bình quân trên 1ha rừng của 3 lưu vực sông cũng chênh lệch nhau khá lớn (sông A Vương hơn 403 nghìn đồng/ha, sông Bung 6: 308 nghìn đồng/ha, sông Cùng: 161 nghìn đồng/ha). Do không thể phân chia đều diện tích rừng của 3 lưu vực sông để khoán cho mỗi hộ BVR trên cùng địa bàn xã để tạo thu nhập đồng đều, nên mới đây, UBND tỉnh đã có văn bản xác định mức chi trả tiền cho người dân ở xã Ma Cooih nằm trên 3 lưu vực sông nói trên không có chênh lệch lớn. Theo đó, người dân sẽ được hưởng số tiền chi trả bình quân trên 1ha của cả 3 lưu vực sông cộng lại.
Dân không biết rừng ở đâu để bảo vệ
Thời gian qua, Ban Quản lý rừng phòng hộ A Vương đã lập các bản hợp đồng với các hộ, nhóm hộ để chi trả DVMTR nhưng vẫn chưa ghi đầy đủ các chi tiết về đơn giá khoán, diện tích khu rừng, tổng số tiền hộ nhận khoán thực nhận, phương thức thanh toán, quyền và nghĩa vụ giữa các bên liên quan. Năm 2010, đơn vị này chi trả hơn 276 triệu đồng cho các hộ nhận khoán BVR. Tuy nhiên, khi phân phát tiền, trưởng thôn trích một phần làm quỹ, số còn lại chi tất cả các hộ trong thôn, bao gồm các hộ có ký hợp đồng lẫn chưa ký hợp đồng nhận khoán BVR. Tại thôn A Zal và Tà Rèn, bình quân mỗi hộ chỉ thực nhận 600 nghìn đồng/năm, thôn A Zớ 700 nghìn đồng/năm, thôn A Trờ Gung 1 triệu đồng/năm. Ông Alăng Ni, thôn A Zớ đề nghị: “Tiền chi trả DVMTR phải đến tay người ký hợp đồng chứ không nên qua khâu trung gian. Thực tế là số tiền đem về thôn đã bị trích một ít lại làm quỹ cho thôn”.
Một nghịch lý khác, tuy đã ký hợp đồng nhận khoán BVR với Ban Quản lý rừng phòng hộ A Vương nhưng các hộ đều không biết khu rừng mình đã nhận khoán bảo vệ nằm ở vị trí nào, hiện trạng rừng ra sao do không được bàn giao thực địa dù các thông tin ghi đầy đủ trên giấy. Thêm vào đó, hồ sơ khoán BVR không có thông tin đơn giá khoán… Theo giải thích của Sở NN&PTNT, ngay cả hợp đồng khoán BVR dự án 661 cũng không ghi cụ thể đơn giá khoán cho mỗi héc ta rừng mà ghi chung chung là đơn giá khoán được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trong hồ sơ thiết kế là vì phụ thuộc vào kinh phí của dự án, vốn phân bổ về tỉnh không phải năm nào cũng ổn định.
Trần Hữu