Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ

Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu giải trình làm rõ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, ngày 24/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.
Các đại biểu Quốc hội cơ bản thống nhất với những nội dung sửa đổi trong dự thảo, đánh giá đây là bước tiến quan trọng nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc tài sản hóa, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.
Bên cạnh đó, nhiều vấn đề nhận được sự quan tâm thảo luận như cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm do AI tạo ra, quản lý và khai thác tài sản trí tuệ, cơ chế thế chấp – xử lý tài sản đảm bảo, hay hoàn thiện quy định về chỉ dẫn địa lý...
Đóng góp ý kiến về Điều 8a liên quan đến quản lý và khai thác quyền sở hữu trí tuệ, đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân (Đoàn TPHCM) cho rằng cơ quan soạn thảo đã tiếp thu nhiều ý kiến tại phiên thảo luận tổ, song một số quy định vẫn cần hoàn thiện.
Theo đại biểu, việc cho phép chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ lập danh mục và tự xác định giá trị tài sản trí tuệ là bước tiến cần thiết, tạo cơ sở để tài sản trí tuệ có thể ghi nhận trong sổ sách kế toán, tham gia giao dịch dân sự, thương mại và đầu tư.
Tuy nhiên, quy định hiện “mở quá rộng” khi cho phép tự định giá mà không đi kèm nghĩa vụ công bố căn cứ, phương pháp hay chuẩn mực định giá tối thiểu.
Thực tiễn kiểm toán và thanh tra cho thấy đây là “kẽ hở” dễ bị lợi dụng để nâng khống giá trị hoặc chuyển giá, tiềm ẩn nguy cơ thất thoát khi giao dịch tài sản công; đồng thời gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng khi thẩm định hồ sơ vay vốn.
Vì vậy, đại biểu đề nghị bổ sung nguyên tắc giải trình và minh bạch hóa phương pháp định giá, nhằm tăng độ tin cậy, bảo đảm tính liêm chính và an toàn cho thị trường tài sản trí tuệ.

Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ
Cũng liên quan đến cải cách thủ tục hành chính (Điều 89 và 89a), đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân nêu rõ thời gian thẩm định sáng chế hiện kéo dài từ 30–36 tháng, thậm chí có trường hợp 4–5 năm, đang gây ra nhiều hệ quả.
Theo đại biểu, tình trạng này khiến nhiều sáng chế mất cơ hội thương mại hóa đúng thời điểm, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ có vòng đời ngắn; đồng thời gây giảm động lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp và nhà khoa học. Việc chậm thẩm định cũng không tương thích với Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, khi nhà đầu tư cần tài sản trí tuệ để huy động vốn.
Vì vậy, đại biểu đề xuất quy định thời hạn tối đa cho từng khâu: Tiếp nhận, thẩm định hình thức, công bố đơn và thẩm định nội dung. Bên cạnh đó, cần có cơ chế rút gọn đối với sáng chế phục vụ doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghệ cao hoặc sáng chế được ứng dụng trong sản xuất trong nước. Đại biểu cũng nhấn mạnh yêu cầu chuyển đổi số toàn diện, hạn chế tối đa hồ sơ giấy nhằm rút ngắn quy trình và đẩy nhanh tiến độ thẩm định.
Giải trình tại phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định tư tưởng chủ đạo của lần sửa đổi này là sở hữu trí tuệ phải biến kết quả nghiên cứu thành tài sản để có thể giao dịch và khi đó mới có thị trường khoa học, công nghệ.
"Sở hữu trí tuệ phải trở thành tài sản của doanh nghiệp, có thể định giá mua bán, được đưa vào báo cáo tài chính, có thể là tài sản đảm bảo để đi vay góp vốn, nhất là tài sản công nghệ mới, công nghệ số, AI", Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.
Theo Bộ trưởng, chuyển dịch quan trọng nhất của sở hữu trí tuệ là chuyển dịch từ bảo vệ quyền sang tài sản hóa, thương mại hóa và thị trường hóa các kết quả nghiên cứu, sở hữu trí tuệ trở thành công cụ cạnh tranh chiến lược của doanh nghiệp và quốc gia.
Ông cho biết, một quốc gia phát triển là một quốc gia mà tài sản vô hình, tài sản trí tuệ chiếm tới 80% tổng tài sản quốc gia. Việt Nam đã đến giai đoạn phải ưu tiên phát triển và bảo vệ tài sản trí tuệ để phát triển Việt Nam thành nước thu nhập cao.
Do vậy, cơ bản các sửa đổi là xung quanh đổi mới này, đồng bộ với các luật khoa học, công nghệ liên quan Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Luật Công nghệ số, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Công nghệ cao, Luật Chuyển đổi số và Luật AI.
Về ghi nhận, quản lý tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp, để tài sản trí tuệ thực sự trở thành tài sản kinh tế, luật có điều khoản chung về ghi nhận, quản lý tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp rồi giao Chính phủ quy định chi tiết về hạch toán, thuyết minh, chuẩn mực, định giá.
Trong đó, tài sản chưa đủ điều kiện để ghi nhận trên bảng cân đối kế toán sẽ được ghi trong sổ theo dõi riêng về tài sản trí tuệ, có thể tự định giá nhưng chỉ có giá trị nội bộ, không mang đi vay ngân hàng được chú thích rõ là doanh nghiệp tự định giá, kèm theo chi phí tạo ra tài sản. Đây là biện pháp để thúc đẩy doanh nghiệp quản lý các tài sản trí tuệ của mình.
Về cải cách thủ tục hành chính, luật yêu cầu chuyển đổi số toàn diện để giảm thời gian thẩm định nội dung sáng chế từ 18 tháng xuống 12 tháng và có cơ chế thẩm định nhanh trong 3 tháng, đảm bảo để không tồn hồ sơ đăng ký.
Về sản phẩm do AI tạo ra, Bộ trưởng khẳng định, AI không phải chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, sản phẩm do AI tự động tạo ra không có sự tham gia của con người thì không được bảo hộ bản quyền sáng chế như tác phẩm của con người.
Sản phẩm do con người sử dụng AI như một công cụ để tạo ra giống như bút vẽ, máy ảnh. Con người có đóng góp sáng tạo đáng kể như ý tưởng, chỉ đạo, lựa chọn, chỉnh sửa kết quả AI thì có thể công nhận là tác giả, nhà sáng chế. Còn nếu con người còn đóng góp ít, dùng AI như một đồng nghiệp, ví dụ chỉ đưa ra yêu cầu ngữ cảnh thì không phải tác giả nhưng có quyền sử dụng và thương mại và cơ bản các nước đang tiếp cận theo hướng này.
Luật sẽ giao Chính phủ xác định mức độ sáng tạo của người dùng để có cơ chế bảo hộ phù hợp.
Về mở rộng đối tượng bảo hộ sở hữu trí tuệ, kiểu dáng công nghiệp đối với sản phẩm phi vật lý để phù hợp với xu thế công nghệ mới, nhất là công nghệ số AI, luật sẽ giao Chính phủ quy định chi tiết điều kiện bảo hộ đối với sản phẩm này.
Nhấn mạnh giải pháp nâng cao nhận thức, Bộ trưởng cho rằng nâng cao nhận thức xã hội và doanh nghiệp về sở hữu trí tuệ là xử lý gốc, không có nhận thức đúng sẽ không có đăng ký bảo hộ, không có khai thác, không tôn trọng quyền của người khác. Có nhận thức mới sinh ra nhu cầu và áp lực cải cách các hoạt động sở hữu trí tuệ.
Do vậy, cần đưa sở hữu trí tuệ vào giáo dục phổ thông và đại học, truyền thông mạnh mẽ cho doanh nghiệp và xã hội; đồng thời hoàn thiện tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ, bổ sung chế tài đủ sức răn đe và chuyển mạnh quá trình thực thi sang môi trường số.
Thu Giang