• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

“Tam chủng chiến pháp”

(Chinhphu.vn) - Năm 2003, Trung ương Đảng Cộng sản cùng Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã chính thức thông qua học thuyết “Tam chủng chiến pháp” (3 kiểu đấu pháp chiến tranh), coi đây là nhân tố quan trọng trong chiến tranh thông tin.

18/06/2014 13:47

Theo học giả Timothy A. Walton thuộc Công ty phân tích, nghiên cứu, tư vấn Delex, tác giả cuốn “Tam chủng chiến pháp của Trung Quốc (China’s Three Warfares) viết hồi năm 2012, thì chiến lược này gồm có 3 thành tố: Chiến tranh tâm lý, chiến tranh truyền thông và chiến tranh pháp lý.

Chiến tranh truyền thông, theo Walton, là một chiến lược được tạo lập nhằm gây ảnh hưởng, lèo lái dư luận quốc tế theo hướng ủng hộ Trung Quốc, đồng thời phủ nhận những luồng tư tưởng của đối thủ gây bất lợi cho Trung Quốc. Tài liệu quan điểm của Trung Quốc gửi LHQ là bước đi nhằm cô lập Việt Nam, trong bối cảnh đa số các quốc gia thành viên tại tổ chức lớn nhất hành tinh này đều không có lợi ích trực tiếp trong các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.

Về chiến tranh pháp lý, theo Walton, đây là cách sử dụng luật pháp trong nước và quốc tế nhằm tạo lập cơ sở pháp lý hậu thuẫn cho tuyên bố chủ quyền và các lợi ích của Trung Quốc. Trong văn bản đệ trình LHQ, Bắc Kinh đã “khéo léo” lựa trích, cắt cúp một số điều khoản nhất định của luật pháp quốc tế nhằm biện minh cho quan điểm của mình.

Thế nhưng, chính ở góc độ pháp lý này mà Bắc Kinh đã lộ ra các điểm yếu của mình.

Khi mới hạ đặt, Trung Quốc cho là giàn khoan Hải Dương 981 nằm tại điểm cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý. Trong khi đó theo Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), vùng lãnh hải chỉ kéo dài 12 hải lý tính từ bờ (đường cơ sở) của một quốc gia ven biển. Trong tuyên bố hôm 6/6, Trung Quốc có ý “cải chính” lỗi sai này, khi nói rằng Hải Dương 981 được đặt trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Trung Quốc. Lời khẳng định này cũng không có cơ sở pháp lý. Theo UNCLOS, mục đích duy nhất của vùng tiếp giáp là nhằm tạo điều kiện cho quốc gia ven biển “thực thi kiểm soát cần thiết để: Ngăn chặn sự vi phạm các luật hay quy định của quốc gia đó về hải quan, tài chính, di cư hay vệ sinh trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải”; trừng phạt việc vi phạm các luật và quy định trên đây, đã được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của quốc gia đó.

Kế đến, Trung Quốc cũng tìm cách “tung hỏa mù”, khi tài liệu quan điểm trên có nói là Hải Dương 981 cách Tri Tôn 17 hải lý, cách bờ biển Việt Nam từ 133-156 hải lý; nhưng quên mất rằng Việt Nam chưa bao giờ từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa và rằng hành động chiếm đóng bằng vũ lực của Trung Quốc đối với quần đảo này không thể là cơ sở khẳng định chủ quyền.

Cuối cùng, phải thấy một sơ sót rất lớn trong tài liệu của Trung Quốc trình LHQ: Văn bản nói rằng vùng biển giữa quần đảo Hoàng Sa và bờ biển đất liền Việt Nam chưa được phân định. Hai bên chưa tiến hành phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa trong vùng biển này. Hai bên có quyền tuyên bố EEZ và thềm lục địa phù hợp với UNCLOS.

Trong trường hợp này, Trung Quốc phải tuân thủ các điều khoản của UNCLOS về vùng biển chồng lấn. Theo đó, Trung Quốc và bên tranh chấp phải tiến đến thỏa thuận điều khoản về vùng tranh chấp, cho đến khi đạt một hiệp định về phân định. Trong quá trình này, không bên nào được phép thay nguyên trạng, sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực. Thế nhưng, rõ ràng việc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 đã “tố” Trung Quốc vi phạm các nguyên tắc của luật pháp quốc tế.

Tựu chung lại, sau việc Trung Quốc đệ trình tài liệu quan điểm tới Tổng thư ký LHQ, các quốc gia thành viên và cộng đồng quốc tế, cần lưu ý đến những căng thẳng gia tăng ở Biển Đông và tác động của nó đối với an ninh khu vực. Những nước này nên đồng thuận rằng vấn đề cần được Hội đồng Bảo an để tâm.

Trung Quốc cần bị đẩy vào thế “không thoải mái” theo các hướng: Họ không chấp nhận các thảo luận ở HĐBA; hoặc là sẽ phủ quyết một nghị quyết bày tỏ quan ngại về hành động trên Biển Đông. Đó sẽ yếu tố buộc Bắc Kinh tháo chạy khỏi những toan tính muốn sử dụng LHQ cho các mục đích tuyên truyền./.

                                                                    Nguyễn Linh (tổng hợp)