Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ

Diễn đàn khoa học “Quản lý phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số" - Ảnh: VGP/Thu Giang
Ngày 29/12, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức Diễn đàn khoa học với chủ đề “Quản lý phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số”.
Phát biểu khai mạc Diễn đàn, GS.TS. Lê Văn Lợi, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhấn mạnh xây dựng Chính phủ số, Kinh tế số và Xã hội số không đơn thuần là ứng dụng công nghệ số, mà là quá trình tái cấu trúc toàn diện, đòi hỏi đổi mới căn bản về tư duy lãnh đạo, thể chế, phương thức tổ chức và mô hình vận hành.
Diễn đàn được tổ chức nhằm đóng góp đánh giá khoa học và tham mưu tư vấn chính sách cho Đảng, Nhà nước, đặc biệt trong việc triển khai Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Từ các tham luận gửi tới Diễn đàn, các chuyên gia thống nhất đánh giá Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong tiến trình chuyển đổi số. Về Chính phủ số, Việt Nam xếp hạng 71/193 quốc gia theo Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (EGDI) năm 2024 của Liên Hợp Quốc, tăng 15 bậc so với năm trước và lần đầu tiên được xếp vào nhóm “rất cao” trên toàn cầu.
Về Kinh tế số, đây là điểm sáng nổi bật với tỷ trọng ước đạt 18,3–18,6% GDP năm 2024, tốc độ tăng trưởng trên 20%/năm, cao gấp ba lần tốc độ tăng GDP chung; thương mại điện tử đạt khoảng 20,5 tỷ USD.
Về Xã hội số, tỷ lệ người dân sử dụng Internet đã vượt 77%, giáo dục số và y tế số có nhiều bước tiến, đặc biệt 100% cơ sở y tế đã chấp nhận căn cước công dân gắn chip hoặc VNeID trong khám chữa bệnh.
Tuy nhiên, Diễn đàn cũng chỉ rõ các thách thức. Trước hết, mô hình quản lý hiện nay vẫn được thiết kế cho nền kinh tế công nghiệp truyền thống, chưa thích ứng đầy đủ với kinh tế số.
Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các hình thái mới như nền tảng số xuyên biên giới, dữ liệu như tài sản sản xuất, trí tuệ nhân tạo, tiền số đặt ra yêu cầu cấp thiết về khung quản trị mới, trong khi pháp luật hiện hành còn thiếu đồng bộ.
Nguy cơ gia tăng bất bình đẳng số, thể hiện ở khoảng cách giữa các vùng, các nhóm xã hội và tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực số chất lượng cao. Các thách thức về an ninh, chủ quyền dữ liệu và quyền riêng tư ngày càng phức tạp, trong bối cảnh “ốc đảo dữ liệu” giữa các bộ, ngành vẫn tồn tại.
Phân tích sâu hơn, các chuyên gia chỉ ra 3 điểm nghẽn lớn: Hạ tầng và dữ liệu chưa đồng bộ, nhân lực và kỹ năng số còn hạn chế, thể chế và cơ chế điều phối liên ngành chưa theo kịp tốc độ phát triển công nghệ.
Tại Diễn đàn, GS.TS. Trần Thọ Đạt, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân nhấn mạnh, lực lượng sản xuất số đang trở thành nền tảng của một hình thái phát triển mới – kinh tế tri thức và xã hội dữ liệu. Dữ liệu, trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đang thay thế dần vai trò của tư liệu sản xuất truyền thống, đặt ra yêu cầu đổi mới căn bản về quan hệ sản xuất và cơ chế quản lý.
Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng trong phát triển hạ tầng số, phổ cập Internet và mở rộng kinh tế số - với tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 20% và tỉ trọng đóng góp hơn 18% GDP. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất số của Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn hình thành ban đầu, chưa đạt "độ chín" về năng lực tri thức, công nghệ và tổ chức.
Theo GS.TS. Trần Thọ Đạt, để tận dụng cơ hội mà lực lượng sản xuất số mang lại, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, xây dựng chính phủ dữ liệu hóa và xã hội học tập suốt đời, coi dữ liệu là nguồn lực chiến lược ngang hàng với vốn và lao động.
Quản lý lực lượng sản xuất số không chỉ là việc áp dụng công nghệ, mà là tái thiết toàn bộ cơ chế quản lý, từ tư duy điều hành đến tổ chức thể chế, nhằm thích ứng với logic vận hành của nền kinh tế số – linh hoạt, kết nối và dựa trên tri thức. Bên cạnh đó, cần phát triển văn hóa dữ liệu và đạo đức số, bảo đảm cân bằng giữa đổi mới sáng tạo và an toàn xã hội.

Các đại biểu tham dự Diễn đàn - Ảnh: VGP/Thu Giang
Ở góc độ nghiên cứu về thể chế, GS.TS. Trần Ngọc Đường, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho rằng, trong kỷ nguyên số, quản lý phát triển kinh tế – xã hội phải chuyển từ mô hình mệnh lệnh hành chính sang quản trị thông minh dựa trên dữ liệu và công nghệ.
Pháp luật cần được xây dựng theo tư duy chủ động, dự báo trước xu hướng phát triển khoa học – công nghệ, tạo không gian linh hoạt cho đổi mới sáng tạo. Chính phủ không chỉ thực thi luật pháp mà phải đóng vai trò “Chính phủ kiến tạo”, chủ động khởi xướng và dẫn dắt thể chế.
Đáng chú ý, GS.TSKH. Vũ Minh Giang nhấn mạnh tư duy quản trị kiến tạo là nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số. Theo ông, yêu cầu lớn nhất của tư duy quản trị kiến tạo là khai thác hiệu quả mọi nguồn lực hiện có. Trong kỷ nguyên số, những đặc trưng văn hóa của người Việt như sự linh hoạt, khả năng thích ứng nhanh, cùng năng lực tư duy logic, lại trở thành lợi thế. Việt Nam cần mạnh dạn đầu tư chiến lược vào các lĩnh vực công nghệ số, bán dẫn, chip.
Bàn về trí tuệ nhân tạo, GS.TSKH. Vũ Minh Giang cho rằng cần chủ động dùng AI để quản lý AI, đồng thời phân tích cấu trúc 4 tầng của công nghệ thông tin là D – dữ liệu (big data), I – thông tin (information), K – tri thức (knowledge) và W – thông tuệ (wisdom). AI hiện nay có khả năng chi phối mạnh mẽ 2 tầng đầu là dữ liệu và thông tin nhờ năng lực xử lý khổng lồ. Tuy nhiên, ở tầng tri thức, AI mới chỉ dừng lại ở mức khai thác thông tin, còn tầng cao nhất – thông tuệ – vẫn là lĩnh vực mà con người không thể bị thay thế.
Vì vậy, theo GS.TSKH. Vũ Minh Giang, Việt Nam cần có những giải pháp đi trước, nhằm làm chủ AI, phát huy thế mạnh con người trong kỷ nguyên số, thay vì bị cuốn theo hay phụ thuộc vào công nghệ.
Trên cơ sở thảo luận, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cũng đề xuất 6 nhóm giải pháp trọng tâm, đó là: Nhất quán chiến lược coi chuyển đổi số là trục xuyên suốt; đổi mới tư duy thể chế gắn với quản lý rủi ro bằng dữ liệu và cơ chế thử nghiệm có kiểm soát; xây dựng chiến lược dữ liệu quốc gia; triển khai mạnh mẽ “bình dân học vụ kỹ năng số”; hỗ trợ doanh nghiệp theo chuỗi đổi mới sáng tạo; và hướng tới mô hình quản trị đa tác nhân, trong đó Nhà nước kiến tạo, doanh nghiệp cung cấp giải pháp và người dân là trung tâm đồng sáng tạo chính sách.
Thu Giang