Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Hai lý do để lạc quan
Theo Financial Times, có 2 lý do để lạc quan. Thứ nhất, các thảm họa phá hủy hạ tầng, dù ở quy mô lớn, sẽ chỉ để lại ảnh hưởng khoảng vài tháng đối với các nền kinh tế phát triển, bởi suy giảm tăng trưởng sẽ được bù đắp từ những nỗ lực hồi phục nền kinh tế ngay sau đó.
Steven Wieting, nhà kinh tế tại Citigroup (ở New York, Hoa Kỳ) điểm lại các sự kiện như: thảm họa hạt nhân ở đảo Three Mile Island của Hoa Kỳ năm 1979 và tại Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl của Liên Xô năm 1986; trận động đất ở Kobe (Nhật Bản) năm 1995; sóng thần ở Ấn Độ Dương năm 2004 và bão Katrina ở Mỹ năm 2005, đã nhận xét sau các thảm họa này đều không có suy thoái kinh tế.
Ivailo Izvorski, chuyên gia phụ trách Đông Á tại Ngân hàng Thế giới dự đoán, tác động kinh tế của trận động đất tại Nhật Bản tới châu Á sẽ chỉ kéo dài 2-3 tháng.
Citigroup dự đoán sẽ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản sẽ tăng thêm 0,2% trong 12 tháng tới. Hãng Moody’s cho rằng so với dự báo trước, tăng trưởng GDP của Nhật sẽ giảm 0,4% trong năm 2011, nhưng sẽ tăng 0,4% trong năm 2012.
Lý do thứ hai là, mặc dù chiếm 6% tổng GDP toàn cầu, kinh tế Nhật Bản không còn quan trọng đối với châu Á như trước đây.
Theo Citigroup, 16 năm sau thảm họa động đất Kobe, năm nay thị phần của Nhật Bản trong xuất khẩu của các nước châu Á đã giảm từ 40% xuống còn 7,3%. Các nước còn liên quan nhiều tới Nhật Bản là Indonesia và Philippines. Tuy nhiên, cả 2 nền kinh tế này đều đã định hướng tăng cầu nội địa và giá trị xuất khẩu sang Nhật Bản của họ chiếm chưa đầy 4% GDP.
Thái Lan, Singapore và Malaysia dễ bị tác động hơn, bởi xuất khẩu của họ sang Nhật chiếm 6-8% GDP. Nhưng cả 3 nước này đều sẽ được lợi từ quá trình tái thiết của Nhật Bản, bởi nước Nhật sẽ cần nhập khẩu nhiều loại vật liệu như xi măng, sắt thép và gỗ.
Xuất khẩu của Trung Quốc sang Nhật cũng chỉ chiếm khoảng 2% GDP.
Trong khó khăn vẫn có cơ hội
Theo chuyên gia Ivailo Izvorski, cùng với nỗ lực tái thiết, hoạt động kinh tế ở Nhật Bản sẽ sôi nổi và nó sẽ thúc đẩy tăng trưởng.
Bên cạnh đó, sự gián đoạn về nguồn năng lượng hạt nhân ở Nhật Bản cũng sẽ tác động tích cực tới các nền kinh tế châu Á.
Credit Suisse dự đoán Tập đoàn Điện lực Tokyo phải sử dụng nhiều tổ máy phát điện chạy bằng than để bù đắp sản lượng điện hạt nhân khi cuộc khủng hoảng trôi qua và các hải cảng mở cửa trở lại.
Sử dụng nhiều than sẽ làm nhập khẩu than của Nhật Bản tăng thêm 10 triệu tấn/tháng. Hầu hết số này sẽ được cung cấp từ các mỏ ở Australia và Indonesia. Các cơ sở khai thác dầu khí của Malaysia và Brunei cũng sẽ được lợi từ nhu cầu nhập khẩu năng lượng gia tăng của Nhật Bản.
Các công ty ở một số nước châu Á cũng có cơ hội tăng doanh số bán hàng một khi các “đối thủ” ở Nhật Bản thu hẹp hoạt động.
Joanna Chua, nhà kinh tế của Citigroup ở Hongkong nói Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) có cơ cấu xuất khẩu giống Nhật Bản nhất, do đó sẽ được lợi nhiều nhất. Ví dụ dễ thấy là 2 tập đoàn ô tô Hyundai và Kia của Hàn Quốc sẽ được lợi từ việc đối thủ trực tiếp – hãng Toyota của Nhật Bản – phải thu hẹp hoạt động. Tương tự, các nước Thái Lan và Indonesia cũng sẽ được lợi nếu các tập đoàn ô tô Nhật Bản mở rộng sản xuất ở nước ngoài để bù đắp cho sản lượng suy giảm ở trong nước.
Về nguồn FDI, còn quá sớm để dự đoán xu hướng, nhưng nhìn chung nguồn vốn này đến từ Nhật Bản sẽ tăng lên thay vì giảm đi, do các công ty của Nhật sẽ tìm cách san sẻ rủi ro bằng việc chia nhỏ cơ sở hoạt động sang các nước khác.
Nhận diện một số nguy cơ
Một nguy cơ có thể thấy là một số công ty trong lĩnh vực chế tạo ở các nước láng giềng có thể bị thiệt hại nặng do phụ thuộc vào nguồn hàng nhập khẩu từ Nhật Bản.
Đài Loan (Trung Quốc) và Thái Lan nổi bật nhất trong số này, với hơn 20% hàng hóa nhập khẩu đến từ Nhật Bản, trong đó chủ yếu là thiết bị cơ khí và linh kiện điện tử.
Hàn Quốc, Malaysia, Việt Nam và Singapore cũng có thể bị ảnh hưởng, bởi các nước này có khoảng 11-15% hàng hóa nhập khẩu bắt nguồn từ Nhật.
Đã có dấu hiệu cho thấy một số công ty chế tạo ở châu Á sẽ buộc phải chuyển đổi cơ sở sản xuất. Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng tác động này sẽ không nghiêm trọng hoặc kéo dài, một phần bởi nguồn hàng nhập khẩu từ Nhật Bản sẽ được nối lại khi nước này bắt đầu công cuộc tái thiết, phần khác bởi các nhà chế tạo sẽ chuyển sang nhập thiết bị từ các nước khác.
Trên thị trường tài chính, một số nhà phân tích lo sợ ở châu Á sẽ xảy ra một làn sóng rút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài, hoặc về lâu dài đầu tư trực tiếp nước ngoài đến từ Nhật Bản sẽ suy giảm. Đây là hai yếu tố quan trọng giúp nhiều nền kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, sự chênh lệch về lãi suất giữa châu Á và các nước phương Tây sẽ là yếu tố giữ chân các nhà đầu tư, trừ trường hợp xảy ra thảm họa hạt nhân.
Frederic Neumann, đồng chủ trì nhóm nghiên cứu kinh tế của Ngân hàng HSBC tại Hongkong nói mối nguy lớn nhất hiện nay là các ngân hàng trung ương khu vực châu Á phản ứng lại biến động trên thị trường tài chính bằng cách trì hoãn tăng lãi suất – việc làm cần thiết để khống chế lạm phát và đối phó với chính sách nới lỏng tiền tệ của phương Tây.
Ông cho rằng thảm họa Nhật Bản, dù khá lớn, cũng sẽ không đẩy lùi quá trình tăng trưởng của châu Á. Các nhà hoạch định chính sách ở châu Á giờ đây sẽ rất muốn tạm dừng kế hoạch thắt chặt tiền tệ. Nhưng làm vậy sẽ là sai lầm. Lạm phát sẽ vẫn là mối lo lớn nhất đối với các nền kinh tế mới nổi ở châu lục này.
Vấn đề liên quan:
>> Thảm họa thiên tai ở Nhật Bản tác động đến kinh tế thế giới
>> Quốc tế theo dõi sát diễn biến của thị trường than
Nguyễn Chiến