• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

(Chinhphu.vn) - Thông cáo báo chí về thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 19/10/2016.

19/10/2016 18:34
Điều kiện thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp

Chính phủ vừa ban hành Nghị định quy định điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Trong đó, Nghị định quy định rõ điều kiện thành lập, cho phép thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp; phân hiệu của trường trung cấp, cao đẳng.

Cụ thể, Nghị định quy định cơ sở giáo dục nghề nghiệp được thành lập, cho phép thành lập khi có đề án thành lập và đáp ứng các điều kiện sau:

1- Phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp Việt Nam; quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (bộ); quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (UBND). Đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập khi thành lập phải cam kết hoạt động theo cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập do Chính phủ quy định.

2- Quy mô đào tạo: a) Đối với trung tâm giáo dục nghề nghiệp: Quy mô đào tạo trình độ sơ cấp tối thiểu 150 học sinh/năm; b) Đối với trường trung cấp: Quy mô đào tạo trình độ trung cấp tối thiểu 250 học sinh/năm; c) Đối với trường cao đẳng: Quy mô đào tạo trình độ cao đẳng và trình độ trung cấp tối thiểu là 500 học sinh, sinh viên/năm.

3- Có địa điểm xây dựng cơ sở vật chất bảo đảm diện tích đất sử dụng tối thiểu đối với trung tâm giáo dục nghề nghiệp là 1.000 m2; đối với trường trung cấp là 20.000 m2; đối với trường cao đẳng là 50.000 m2.

4- Vốn đầu tư thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp được đầu tư bằng nguồn vốn hợp pháp, không bao gồm giá trị về đất đai, cụ thể như sau: Đối với trung tâm giáo dục nghề nghiệp tối thiểu là 5 tỷ đồng; đối với trường trung cấp tối thiểu là 50 tỷ đồng; đối với trường cao đẳng tối thiểu là 100 tỷ đồng.

5- Đáp ứng các điều kiện đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp theo quy định tại Nghị định này (dự kiến về cơ cấu tổ chức; cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo; chương trình, giáo trình đào tạo; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý).

Đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho người khuyết tật, Nghị định quy định cơ sở phải bảo đảm các điều kiện theo quy định trên và các điều kiện theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 Điều 18 của Luật giáo dục nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định rõ về điều kiện thành lập, cho phép thành lập phân hiệu của trường trung cấp, trường cao đẳng. Theo đó, trường trung cấp, trường cao đẳng phải có đề án thành lập, cho phép thành lập phân hiệu, bao gồm các nội dung sau: 1- Sự cần thiết thành lập phân hiệu; 2- Tên gọi, phạm vi hoạt động phân hiệu; 3- Kế hoạch xây dựng, phát triển và quy mô đào tạo tương ứng với từng giai đoạn phát triển phân hiệu; 4- Dự kiến về cơ cấu tổ chức; cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo; chương trình, giáo trình đào tạo; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đáp ứng các điều kiện về đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp theo quy định tại Nghị định này.

Thủ tướng phê duyệt biên chế công chức năm 2017

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt biên chế công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước và biên chế của các Hội có tính chất đặc thù hoạt động trong phạm vi cả nước năm 2017.

Theo đó, tổng biên chế công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước năm 2017 của các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước và Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài (không bao gồm biên chế của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, biên chế công chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập và cán bộ, công chức cấp xã) là 269.084 biên chế công chức.

Cụ thể, biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước 268.084; trong đó, các cơ quan, tổ chức hành chính thuộc bộ, cơ quan ngang bbộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập mà không phải là đơn vị sự nghiệp công lập 109.146 biên chế; các cơ quan, tổ chức hành chính thuộc cơ quan của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện 157.853 biên chế; các Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài 1.085 biên chế.

Biên chế công chức dự phòng là 1.000.

Quyết định cũng phê duyệt, tổng biên chế của các Hội có tính chất đặc thù hoạt động trong phạm vi cả nước là 686 biên chế.

Như vậy, so với năm 2016, năm 2017 giảm 3.832 biên chế của các bộ, ngành và địa phương; giữ nguyên biên chế dự phòng, các hội đặc thù và cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài.

Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ trưởng Bộ Nội vụ có trách nhiệm giao biên chế công chức đối với từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập mà không phải là đơn vị sự nghiệp công lập và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong số biên chế công chức quy định ở trên; giao biên chế đối với từng Hội có tính chất đặc thù hoạt động trong phạm vi cả nước; trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc sử dụng biên chế công chức dự phòng.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành và địa phương thực hiện điều chuyển, sắp xếp trong tổng số biên chế được giao khi thành lập tổ chức mới hoặc được giao nhiệm vụ mới.

Phát triển các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách, công cụ, biện pháp nhằm hỗ trợ công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam; nâng cao trách nhiệm, trình độ, năng lực của cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và nhận thức của người tiêu dùng nhằm đạt được những kết quả cụ thể trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, góp phần bảo đảm công bằng xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước.

Chương trình phát triển các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng giai đoạn 2016-2020 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Phấn đấu đến năm 2020 bảo đảm tối thiểu 60 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập được Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp tỉnh; tối thiểu 40 tỉnh, thành phát triển được mạng lưới tổ chức xã hội về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng xuống địa bàn cấp quận, huyện.

Hình thành hệ thống tổ chức hòa giải về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng từ Trung ương tới địa phương, bảo đảm tối thiểu 40 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập được tổ chức hòa giải thuộc cơ quan quản lý nhà nước hoặc tổ chức xã hội cấp tỉnh về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện việc kiểm tra, đánh giá chất lượng hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng...

Một trong những nội dung của Chương trình là tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng. Cụ thể, xây dựng cơ chế phối hợp và hỗ trợ giữa cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng với các cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện việc kiểm tra, đánh giá chất lượng hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng, đặc biệt là trong các lĩnh vực an toàn thực phẩm, y tế, tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng.

Tổ chức, trang bị một số công cụ, phương tiện, thiết bị kiểm tra, đánh giá chất lượng hàng hóa, dịch vụ cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng các cấp.

Hỗ trợ tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng độc lập khảo sát, thử nghiệm chất lượng hàng hóa, dịch vụ để cảnh báo cho người tiêu dùng.

Nội dung khác là xây dựng và thực hiện Chương trình Doanh nghiệp vì người tiêu dùng, tập trung hướng dẫn, tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm của mình đối với người tiêu dùng Việt Nam thông qua các hoạt động như: Chủ động đưa các chính sách, quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vào các chính sách, chiến lược kinh doanh; xây dựng bộ phận chuyên trách (hoặc kiêm nhiệm) và hệ thống tư vấn, hỗ trợ, giải quyết khiếu nại cho người tiêu dùng tại doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, xây dựng và áp dụng quy trình, tiêu chuẩn về giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng, triển khai các hoạt động nhằm giảm thiểu các khiếu nại của người tiêu dùng; xây dựng và phát hành các tài liệu hướng dẫn việc thực hiện các nội dung của Chương trình và các ấn phẩm, tờ rơi về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khác theo chính sách của doanh nghiệp; triển khai các hoạt động đào tạo, tập huấn cho ban lãnh đạo, nhân viên và khách hàng của doanh nghiệp liên quan đến việc thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Bộ Công Thương có trách nhiệm xây dựng nội dung cụ thể của Chương trình; ban hành các tiêu chí đánh giá, chứng nhận và cấp chứng nhận cho các doanh nghiệp đáp ứng các điều kiện, tiêu chí của Chương trình; xây dựng và vận hành cơ chế giám sát việc thực hiện của các doanh nghiệp đã được cấp chứng nhận; xây dựng và vận hành hệ thống thông tin để người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân có liên quan có thể truy cập tìm kiếm và xác minh các doanh nghiệp được cấp chứng nhận.

Giao kế hoạch đầu tư vốn từ nguồn thu để lại cho BHXH Việt Nam

Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định giao kế hoạch đầu tư và danh mục dự án đầu tư vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước năm 2016 (đợt 2) cho Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.

Cụ thể, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội được trích lại để đầu tư là 121,121 tỷ đồng; vốn từ nguồn thu để lại chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước là 947,097 triệu đồng, trong đó, các dự án điều chỉnh giảm quy mô đầu tư là 146,816 triệu đồng, các dự án thẩm định lại nguồn vốn và khả năng cân đối vốn là 800,281 triệu đồng.

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao chi tiết danh mục dự  án và mức vốn kế hoạch đầu tư vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước năm 2016 của từng dự án; chủ trì kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước năm 2016; chịu trách nhiệm toàn diện trước Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan thanh tra, kiểm toán về tính chính xác của các thông tin, số liệu và mức vốn phân bổ cho các dự án.

Thủ tướng Chính phủ giao Bảo hiểm Xã hội Việt Nam thông báo cho các đơn vị danh mục và mức kế hoạch đầu tư vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước năm 2016 cho từng dự án theo quy định và gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính trước ngày 1/11/2016; thực hiện giải ngân và báo cáo giải ngân theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 3 Quyết định số 1277/QĐ-TTg ngày 5/7/2016 của Thủ tướng Chính phủ.

50 cuộc điều tra, tổng điều tra thống kê quốc gia

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Chương trình điều tra thống kê quốc gia, theo đó có 3 cuộc tổng điều tra thống kê quốc gia và 47 cuộc điều tra thống kê.

3 cuộc tổng điều tra thống kê quốc gia gồm: Tổng điều tra dân số và nhà ở; Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp; Tổng điều tra kinh tế.

Tổng điều tra dân số và nhà ở nhằm thu thập số liệu về dân số, lao động xã hội và nhà ở phục vụ công tác nghiên cứu, phân tích quy mô, cơ cấu phân bố và tỷ lệ tăng dân số, nguồn lao động và nhà ở của dân cư. Thời điểm tổng điều tra dân số và nhà ở chu kỳ 10 năm, ngày 01 tháng 4 (tiến hành vào các năm có số tận cùng là 9).   

Thời điểm tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp chu kỳ 10 năm, ngày 1 tháng 7 (tiến hành vào các năm có số tận cùng là 5).   

Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp nhằm thu thập thông tin cơ bản về nông thôn, nông nghiệp, lâm nghiệp diêm nghiệp và thủy sản phục vụ nghiên cứu đánh giá quy mô và cơ cấu lao động nông thôn, nông nghiệp; quy mô đất đai, điều kiện sản xuất nông nghiệp; thay đổi kết cấu hạ tầng nông thôn; tình hình thực hiện một số nội dung của các chương trình, mục tiêu quốc gia trong nông thôn, nông nghiệp; xây dựng cơ sở dữ liệu về nông nghiệp, thủy sản và nông thôn; lập dàn mẫu cho các cuộc điều tra chọn mẫu; so sánh quốc tế.

Còn tổng điều tra kinh tế nhằm thu thập thông tin cơ bản về số cơ sở kinh tế, số lượng, trình độ của lực lượng lao động đang làm việc trong các cơ sở kinh tế; kết quả hoạt động làm cơ sở để rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách quản lý, kế hoạch, quy hoạch phát triển ngành, vùng, phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp dàn mẫu tổng thể phục vụ các cuộc điều tra chọn mẫu của ngành Thống kê và các ngành khác.

Thời điểm tổng điều tra kinh tế chu kỳ 5 năm, ngày 1 tháng 3 và 1 tháng 7 (tiến hành vào các năm có số tận cùng là 1 và 6).

Trong số 47 cuộc điều tra thống kê thì có 4 cuộc điều tra về đất đai, dân số, lao động, việc làm gồm: 1- Điều tra kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất; 2- Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ; 3- Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình; 4- Điều tra lao động và việc làm.

2 cuộc điều tra về tài khoản quốc gia, tài chính tiền tệ: 1- Điều tra thu thập thông tin lập bảng cân đối liên ngành và tính hệ số chi phí trung gian; 2- Điều tra thu thập thông tin tính các chỉ tiêu giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm của các đơn vị sự nghiệp và tổ chức vô vị lợi.

Ngoài ra, Chương trình thống kê quốc gia còn có 8 cuộc điều tra về nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; 4 cuộc điều tra về công nghiệp, vốn đầu tư, xây dựng; 9 cuộc điều tra về thương mại, du lịch, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin; 3 cuộc điều tra về cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp; 8 cuộc điều tra về giá; 3 cuộc điều tra về khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường; 6 cuộc điều tra về y tế, giáo dục, văn hóa, trật tự an toàn xã hội, mức sống dân cư.

Điện Biên cần đột phá trong phát triển du lịch

Tỉnh Điện Biên cần có đột phá trong phát triển du lịch để phát huy tiềm năng nổi bật về du lịch sinh thái, du lịch văn hóa lịch sử và du lịch biên giới.

Đó là nội dung trong thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Điện Biên.

Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Điện Biên cần tổ chức quảng bá và xúc tiến du lịch một cách chuyên nghiệp hơn, sớm nâng cấp sân bay để tạo điều kiện kết nối du lịch. Chú trọng đào tạo đội ngũ, nguồn nhân lực làm du lịch đáp ứng nhu cầu phát triển trong thời kỳ mới.

Tỉnh Điện Biên cần làm tốt công tác quy hoạch, trong đó chú trọng quy hoạch ngành, lĩnh vực để khai thác tối đa lợi thế của Tỉnh về rừng, đất rừng, nguồn nước, tiểu khí hậu và đa dạng sinh học. Tăng cường liên kết phát triển với Sơn La, Lai Châu, Lào Cai và các tỉnh trong vùng. Đẩy mạnh phát triển kinh tế cửa khẩu, xúc tiến thương mại biên giới, phát triển thị trường gắn với chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, hàng kém chất lượng.

Công tác xóa đói, giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị trọng tâm lâu dài của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân địa phương; Thủ tướng yêu cầu tỉnh Điện Biên cần nâng cao nhận thức, năng lực và trao quyền cho người dân trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Để xóa đói giảm nghèo bền vững phải chú trọng nâng cao dân trí, phát triển giáo dục đào tạo với các mô hình trường nội trú, bán trú dân nuôi...

Triển khai quyết liệt Kế hoạch hành động của Tỉnh thực hiện các Nghị quyết số 19, 35, 60 của Chính phủ về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo mọi điều kiện thuận lợi và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, khuyến khích phong trào khởi nghiệp, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư công.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng yêu cầu tỉnh Điện Biên tập trung thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Giao đất, giao rừng, để phát huy trách nhiệm của người dân trong việc quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, góp phần đẩy mạnh sản xuất hàng hóa và xóa đói giảm nghèo. Tăng cường khuyến nông, khuyến lâm và có giải pháp đột phá trong phát triển nông, lâm nghiệp để làm cơ sở phát triển kinh tế xã hội; trong đó chú ý chăn nuôi đại gia súc quy mô lớn.

Xây dựng bộ máy chính quyền và  đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Cán bộ phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, không để tình trạng gây chậm trễ, khó khăn trong giải quyết thủ tục đầu tư của doanh nghiệp./.