Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Thủ tướng yêu cầu cắt giảm ngay thủ tục mua thuốc phòng, chống COVID-19
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa có ý kiến về phản ánh của báo chí liên quan đến thủ tục mua thuốc phòng, chống COVID-19.
Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Y tế có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cắt giảm ngay thủ tục hành chính liên quan đến việc mua thuốc phòng, chống COVID-19; căn cứ tình hình thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm các nước để khẩn trương quyết định việc cấp phép nhập khẩu và sử dụng thuốc điều trị COVID-19.
Bên cạnh đó, tăng cường công tác quản lý giá thuốc, xử lý nghiêm trường hợp đầu cơ, buôn lậu thuốc theo quy định; tạo điều kiện thuận lợi, không để nhân dân vất vả với quá nhiều thủ tục trong việc tiếp cận và mua thuốc điều trị COVID-19.
Trước đó, theo bản điểm tin của Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, Báo điện tử Vietnamnet ngày 27/2 có đăng bài "Thủ tục cứng nhắc, người dân tự xoay sở mua thuốc điều trị COVID-19". Theo bài báo, trên thực tế, từ thời điểm thuốc Molnupiravir chính thức lên kệ ở các cửa hàng dược phẩm, người mua được không nhiều. Lý do là người dân không đáp ứng đủ quy định như phải có giấy xác nhận F0, có đơn thuốc do bác sĩ ký tên. Bác sĩ Trương Hữu Khanh, chuyên gia dịch tễ cho rằng, bán thuốc kháng virus theo đơn bác sĩ kê là đúng. Nhưng với COVID-19, quy định này trở nên quá khó khăn, nhiêu khê. Bác sĩ nào được quyền kê đơn này, đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể, còn nếu chờ giấy xác nhận F0 của địa phương thì đã muộn vì thuốc chỉ dùng trong những ngày đầu mắc COVID-19.
5 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển kinh tế-xã hội khu vực biên giới đất liền
Ngày 2/3/2022, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 23/NQ-CP về phát triển kinh tế khu vực biên giới đất liền.
Một trong những mục tiêu của Nghị quyết là phát triển bền vững kinh tế-xã hội vùng biên giới gắn với tạo việc làm, tăng thu nhập; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội; giảm nghèo bền vững, thu hẹp chênh lệch vùng, miền; cải thiện rõ rệt và nâng cao chất lượng đời sống, sức khỏe của nhân dân.
Nghị quyết nêu rõ, khu vực biên giới là một địa bàn trọng yếu, đóng vai trò là "phên dậu" của quốc gia, với đường biên giới trên đất liền trải dài hơn 5.000 km bao gồm nhiều cửa khẩu thông với các nước láng giềng nên việc phát triển kinh tế, thương mại, an sinh xã hội trên khu vực này rất quan trọng và cần thiết nhằm phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, qua đó tạo điều kiện cho kinh tế của một vùng, một địa phương cũng như kinh tế của cả quốc gia phát triển, góp phần tăng cường, mở rộng và nâng cao hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa nước ta với các nước láng giềng (Trung Quốc, Lào, Campuchia) và các nước khác trong khu vực.
Trong bối cảnh kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và chăm lo đầu tư xây dựng, hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh tại khu vực biên giới. Nhờ đó, kinh tế-xã hội khu vực biên giới đã có nhiều chuyển biến rõ rệt, nhiều địa bàn có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung của cả nước.
Tuy nhiên, với trình độ và cơ hội phát triển chênh lệch, kinh tế-xã hội vùng biên giới còn chậm phát triển so với mặt bằng chung của tỉnh biên giới và cả nước, kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ đạo, công nghiệp và thương mại dịch vụ nhìn chung chưa phát triển, chưa có sản phẩm chủ lực, sức cạnh tranh yếu, thương mại tiểu ngạch vẫn là chủ yếu, hạ tầng thương mại hạn chế... Do vậy, để khai thác tốt các tiềm năng và lợi thế tại khu vực biên giới nhằm phát triển kinh tế biên giới, cần phải tiếp tục nghiên cứu, rà soát các chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển để điều chỉnh và có những giải pháp phù hợp với thực tế.
Thu hút nguồn lực phát triển kinh tế khu vực biên giới
Nghị quyết đề ra 5 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm gồm: 1- Xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế khu vực biên giới; 2- Huy động, sử dụng nguồn lực, thu hút nguồn lực phát triển kinh tế khu vực biên giới; 3- Phát triển kết cấu hạ tầng khu vực biên giới; 4- Phát triển sản xuất khu vực biên giới; 5- Thực hiện tốt công tác quốc phòng-an ninh, an sinh, nâng cao phúc lợi xã hội, giảm nghèo bền vững ở khu vực biên giới.
Trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương liên quan đẩy mạnh hợp tác quốc tế, kêu gọi thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, vốn viện trợ và vốn vay ưu đãi cho các dự án xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng cho khu vực biên giới.
Các bộ, ngành có liên quan và địa phương có biên giới ưu tiên dành nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hợp pháp khác để đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống, nhất là phát triển hệ thống hạ tầng giao thông kết nối từ vùng kinh tế phát triển tới vùng khó khăn; trong đó cần thực hiện việc rà soát và xác định rõ đối tượng, địa bàn cụ thể, những công trình thực sự cần thiết, cấp bách, có tính liên kết vùng tại khu vực biên giới để tạo động lực thúc đẩy phát triển, bảo đảm đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm tránh dàn trải, kéo dài và phù hợp chủ trương "kết hợp quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế; phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh".
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các địa phương liên quan xây dựng, phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, ngư nghiệp theo vùng chuyên canh tập trung, có quy mô phù hợp, phát huy tiềm năng thế mạnh của từng vùng miền gắn với thực hiện có hiệu quả Chương trình mỗi xã phường một sản phẩm (OCOP); hướng dẫn thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng theo hướng tăng diện tích trồng các cây có giá trị kinh tế cao gắn với việc hình thành các vùng chuyên canh, tập trung.
Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương liên quan xây dựng, cập nhật bản đồ địa hình, bản đồ địa chính các khu vực biên giới; giám sát biến động nguồn nước và các hoạt động khác trên khu vực biên giới đất liền, vùng biển, hải đảo giữa Việt Nam với các nước chia sẻ, cung cấp dữ liệu cho các bộ, ngành và địa phương liên quan khai thác, ứng dụng, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội khu vực các tỉnh biên giới.
Các cơ quan có liên quan rà soát, cơ cấu lại đất đai, hoàn thành việc giao đất, giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, tạo điều kiện ổn định và cải thiện đời sống cho nhân dân. Giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt và ô nhiễm môi trường vùng đồng bào dân tộc, miền núi, biên giới, gắn với chính sách định canh, định cư vùng miền núi, biên giới.
Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi 5 dự án đường bộ cao tốc
Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 63/TB-VPCP ngày 2/3/2022 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi 5 dự án đường bộ cao tốc trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XV.
Ngày 1/3/2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì cuộc họp Thường trực Chính phủ theo hình thức trực tuyến về Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi 5 dự án đường bộ cao tốc trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XV (gồm các dự án: Đường vành đai 4 Vùng Thủ đô Hà Nội, đường vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh, đường cao tốc Châu Đốc-Cần Thơ-Sóc Trăng, đường cao tốc Khánh Hòa-Buôn Ma Thuột, đường cao tốc Biên Hòa-Vũng Tàu).
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính hoan nghênh thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Giao thông vận tải và các bộ, ngành, địa phương liên quan đã chủ động lập, hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi 5 dự án quan trọng quốc gia để báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XV. Đây là các dự án rất cần thiết, góp phần đạt mục tiêu hoàn thành 5.000 km đường bộ cao tốc vào năm 2030 theo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 đã được Đại hội đảng lần thứ XIII thông qua. Rút kinh nghiệm từ quá trình triển khai hệ thống đường cao tốc trong thời gian qua, để đạt được mục tiêu này quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động phải quyết liệt, xác định trọng tâm, trọng điểm, tổ chức thực hiện phải khoa học, hợp lý, hiệu quả.
Bố trí vốn cho các dự án trên nguyên tắc ngân sách Trung ương 50%, ngân sách địa phương 50%
Về nguồn vốn cho các dự án, ngoài nguồn vốn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã bố trí và nguồn vốn từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội đã dự kiến bố trí cho 3 dự án trong Chương trình, ưu tiên bố trí từ nguồn vốn trong nước nguồn ngân sách Trung ương chưa báo cáo cấp có thẩm quyền về danh mục dự án cụ thể theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1068/VPCP-KTTH ngày 18/2/2022 của Văn phòng Chính phủ.
Việc bố trí vốn cho các dự án trên nguyên tắc ngân sách Trung ương 50%, ngân sách địa phương 50%. Riêng các dự án thành phần trên địa bàn tỉnh Long An thuộc Dự án đường vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, UBND Thành phố Hồ Chí Minh và UBND tỉnh Long An cân nhắc thêm tỉ lệ vốn Trung ương hỗ trợ 50% hay 75% đối với đoạn tuyến đi qua tỉnh Long An. Đồng thời, yêu cầu việc bố trí vốn phải tập trung, bảo đảm hoàn thành các dự án trong nhiệm kỳ; đồng thời rà soát kỹ tiến độ thi công để bảo đảm tiến độ giải ngân và các địa phương phải cam kết giải ngân được thì mới bố trí đủ vốn.
Giao Phó Thủ tướng Lê Minh Khái chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan thực hiện bố trí đủ vốn triển khai 5 dự án nêu trên và cam kết hoàn thành trong nhiệm kỳ 2021-2025.
Về giao chủ đầu tư và cơ quan có thẩm quyền, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu thực hiện phân cấp tối đa cho UBND các tỉnh, thành phố theo đúng Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội để triển khai đầu tư các dự án thành phần trên địa bàn. Bộ Giao thông vận tải và các địa phương thống nhất phạm vi các dự án thành phần để bảo đảm yêu cầu kỹ thuật của các công trình, thuận lợi trong tổ chức thực hiện. Yêu cầu các địa phương phải có cam kết thực hiện nhiệm vụ là chủ đầu tư (đối với dự án đầu tư công) và cơ quan có thẩm quyền (đối với dự án PPP), không để chậm tiến độ hoặc phải điều chỉnh nhiệm vụ chi ngân sách.
Nghiên cứu kỹ hướng tuyến, không bám sát đường quốc lộ để tạo không gian phát triển mới
Về hình thức đầu tư 3 dự án trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, thống nhất thực hiện đầu tư công như đề nghị của Bộ Giao thông vận tải và các địa phương liên quan do Chính phủ đã trình Quốc hội đưa vào Chương trình. Giao Bộ Giao thông vận tải đánh giá kỹ tác động của các dự án này đối với các dự án đã triển khai trong khu vực, bảo đảm ổn định chính sách, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Đồng thời, nghiên cứu kỹ hướng tuyến (phấn đấu thẳng nhất có thể trên nguyên tắc qua sông xây cầu, qua núi đào hầm, qua đồng ruộng thì lấp đất, lấp cát), không bám sát đường quốc lộ để tạo không gian phát triển mới; quy mô phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn đường cao tốc với ít nhất 4 làn xe và vận tốc ít nhất 80 km/giờ.
Về cơ chế, chính sách, đề xuất thực hiện các cơ chế đặc thù tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội đối với các dự án trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời, kiến nghị Bộ Chính trị, Quốc hội cho phép áp dụng các cơ chế tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 và một số cơ chế, chính sách khác vượt thẩm quyền của Chính phủ để triển khai đối với Dự án đường vành đai 4 Vùng Thủ đô và Dự án đường vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh.
Về tiến độ thẩm định, trình Chính phủ, Bộ Chính trị, Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư (cơ quan thường trực của Hội đồng thẩm định Nhà nước) khẩn trương hoàn thành Báo cáo thẩm định 2 dự án đường vành đai, trình Chính phủ tại kỳ họp Chính phủ tháng 2/2022 (ngày 3/3/2022). Đối với 3 dự án còn lại, bảo đảm báo cáo Chính phủ trước ngày 13/3/2022 để trình cấp có thẩm quyền. Bộ Giao thông vận tải thành lập Tổ công tác để phối hợp với Hội đồng thẩm định Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành các thủ tục bảo đảm tiến độ.
Giao Phó Thủ tướng Lê Văn Thành chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan, địa phương liên quan để bảo đảm tiến độ, kỹ thuật và giải quyết vướng mắc khác khi lập và triển khai các dự án.
Đối với nguồn vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã giao cho Bộ Giao thông vận tải (304.000 tỷ đồng), Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp các cơ quan liên quan rà soát lại, bảo đảm các nguồn vốn được đầu tư tập trung cho các công trình trọng điểm quốc gia, của ngành, tránh bố trí dàn trải, manh mún, chia cắt, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15/3/2022.
Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo số 62/TB-VPCP ngày 1/3/2022 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Thông báo nêu rõ: Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã xác định một trong các định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là: "Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo"; đồng thời, xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII là: "Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số". Để cụ thể hóa nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều Nghị quyết, Quyết định về đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số quốc gia. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực đẩy mạnh chuyển đổi số và đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ; các bộ, cơ quan đã và đang tích cực, khẩn trương triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử, bao gồm cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đăng ký doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội, đất đai, tài chính để kết nối, chia sẻ trên toàn quốc. Trong đó, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là cơ sở dữ liệu quốc gia rất quan trọng, gắn với từng người dân, từng gia đình-tế bào của xã hội, là nền tảng, cơ sở dữ liệu lớn để hình thành công dân số, xã hội số, phù hợp với xu thế chung của nhân loại.
Số hóa thông tin của hơn 98 triệu dân cư
Thời gian qua, Bộ Công an là một trong những bộ, ngành có nhiều nỗ lực và quyết liệt trong chuyển đổi số, đạt được kết quả ban đầu rất đáng ghi nhận, đã hoàn thành số hóa và lưu trữ tập trung thông tin của hơn 98 triệu dân cư tại Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư, được vận hành thông suốt, hàng ngày bởi hơn 60 nghìn cán bộ, chiến sĩ công an của gần 11.000 xã, phường, thị trấn trên toàn quốc. Từ cơ sở dữ liệu quan trọng này, Bộ Công an đã cấp mã số định danh cá nhân cho 100% công dân, triển khai thu nhận hơn 60 triệu hồ sơ cấp căn cước có gắn chíp điện tử, đã in và trả hơn 50 triệu thẻ đến tay người dân... Triển khai kết nối thử nghiệm thành công với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của một số bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trên cả nước, phục vụ hiệu quả công tác nghiệp vụ, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt, trong thời gian chống dịch COVID-19 cao điểm vừa qua, Bộ Công an đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai các ứng dụng để kiểm soát đi lại, phòng chống dịch bệnh mang lại hiệu quả tích cực. Đây là những kết quả hết sức ấn tượng, phản ánh sự cố gắng, nỗ lực rất lớn của lực lượng Công an nhân dân cùng các bộ, ngành, địa phương xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia lớn, tập trung, hiện đại trong suốt gần 2 năm qua.
Những kết quả đạt được nêu trên có ý nghĩa quan trọng, góp phần thay đổi phương thức quản lý công dân từ thủ công, sử dụng giấy tờ sang hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin; quản lý toàn dân thông qua mã định danh cá nhân; góp phần khắc phục tình trạng thiếu thống nhất và nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính chính xác trong quản lý thông tin cơ bản của công dân giữa các bộ, ngành, địa phương; tiết kiệm thời gian, công sức, cơ sở vật chất trong xây dựng và vận hành các cơ sở dữ liệu chuyên ngành đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của đất nước; tạo điều kiện thuận lợi và nền tảng quan trọng để triển khai các dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp; góp phần cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà, sách nhiễu, tiếp xúc với nhân dân, doanh nghiệp, góp phần chống tiêu cực, tham nhũng trong việc tiếp xúc với nhân dân, với doanh nghiệp; thúc đẩy quản trị quốc gia bằng kỹ thuật số, quản trị thông minh.
Việc xây dựng thành công Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và hệ thống sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân đã góp phần thúc đẩy xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số.
Trong bối cảnh đất nước hiện nay, khi chúng ta đã chuyển sang giai đoạn thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội, để thực hiện Đề án hiệu quả thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu cần thống nhất một số quan điểm chỉ đạo như sau:
Việc triển khai Đề án là phù hợp với Chương trình chuyển đổi số quốc gia, với quy mô lớn, tiến hành trên phạm vi rộng, có sự phối hợp của nhiều bộ, ngành, nhiều địa phương, là một trong những dự án công nghệ thông tin lớn nhất từ trước đến nay.
Việc triển khai Đề án này có ý nghĩa rất quan trọng, đây là một trong những nhiệm vụ phức tạp, có tính lan tỏa cao, lợi ích thiết thực, hiệu quả lâu dài, nhưng khó khăn, thách thức phía trước còn rất nhiều, thậm chí không ít "lực cản". Một số cơ chế, chính sách, pháp luật còn đang từng bước hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung; điều kiện hạ tầng kỹ thuật, nhân lực công nghệ thông tin của các bộ, ngành, địa phương còn nhiều hạn chế, manh mún, thiếu đồng bộ; vẫn còn đâu đó tâm lý "quyền anh, quyền tôi", tư tưởng cục bộ "cát cứ"; việc chuyển đổi thói quen, cách nghĩ, cách làm của nhiều cấp, nhiều ngành và của toàn xã hội khó có thể thực hiện ngay; nguy cơ mất an toàn, an ninh hệ thống và dữ liệu luôn thường trực... Trong thời gian đầu triển khai sẽ có những khó khăn, vướng mắc, cần phải chia sẻ cùng nhau vượt qua khó khăn, phải khắc phục ngay những nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc về Đề án này, tất cả vì mục tiêu chung là lợi ích quốc gia, dân tộc và quyền lợi của người dân, doanh nghiệp trong thực hiện Đề án.
Phải làm tốt công tác tuyên truyền, định hướng cho xã hội, về lợi ích của Đề án, về những đóng góp vào lợi ích chung, cũng như là lợi ích cho mỗi người dân; lấy người dân là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển, những nỗ lực, đổi mới, quyết tâm của các bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai Đề án và của Bộ Công an trong vận hành, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và quản lý căn cước công dân sẽ được người dân và cộng đông doanh nghiệp đón nhận tích cực, nhiệt tình ủng hộ; góp phần xây dựng được cơ sở dữ liệu lớn về người dân, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước và phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội trong giai đoạn tới.
Về các nhiệm vụ trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ cơ bản nhất trí với báo cáo của Bộ Công an, ý kiến đóng góp của các bộ, ngành, địa phương, và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai các nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, việc thực hiện Đề án, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, vai trò nòng cốt là Bộ Công an, Văn phòng Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông, khẩn trương thành lập Tổ công tác để triển khai Đề án bảo đảm đồng bộ, thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo từ Trung ương xuống địa phương; xây dựng chương trình, kế hoạch, lộ trình về thời gian, nhân lực bảo đảm thực hiện thành công Đề án gắn với Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, trong đó các nhiệm vụ trọng tâm tại Đề án này là triển khai trong năm 2022. Thực hiện tổ chức sơ kết, đánh giá về việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Đề án vào cuối năm 2022.
Đề nghị đồng chí bí thư cấp ủy, chủ tịch UBND các cấp trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, quan tâm chỉ đạo quyết liệt để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; tăng cường kiểm tra, đôn đốc trực tiếp tại cơ sở, tháo gỡ ngay những khó khăn, vướng mắc phát sinh; đẩy mạnh tuyên truyền tạo sự đồng thuận tham gia của các tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp và người dân.
Đề nghị Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam giao ban thường xuyên với tổ công tác định kỳ hoặc đột xuất để giải quyết từng nhiệm vụ cụ thể theo chuyên đề, lĩnh vực, nếu cần thiết họp trực tuyến với các địa phương để giải quyết ngay những khó khăn, vướng mắc phát sinh.
Đẩy mạnh việc triển khai các dịch vụ công trực tuyến
Về triển khai dịch vụ công trực tuyến, kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương khẩn trương đẩy mạnh việc triển khai các dịch vụ công trực tuyến, tập trung triển khai 25 dịch vụ công thiết yếu tại Đề án để phục vụ người dân và doanh nghiệp, bảo đảm hoàn thành trong 6 tháng đầu năm 2022; phối hợp với Bộ Công an triển khai tích hợp các giấy tờ công dân để sử dụng thẻ căn cước công dân và ứng dụng VNEID, trong đó, tích hợp thông tin thẻ bảo hiểm y tế, giấy đăng ký ô tô; giấy phép lái xe, thẻ ngân hàng... tạo thuận lợi cho người dân trong các giao dịch; phối hợp với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông chuẩn bị nền tảng, kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành, nhất là các cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp, thuế, hải quan, ngân hàng, giấy phép lái xe, bảo hiểm, y tế, giáo dục, tiếp theo là cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia và chứng khoán. Trong đó, những cơ quan chưa có hạ tầng công nghệ thông tin hoặc hạ tầng công nghệ thông tin chưa bảo đảm thì nghiên cứu, sử dụng chung hạ tầng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để bảo đảm tiết kiệm, đồng bộ, hiệu quả.
Bộ Tư pháp, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, cơ sở dữ liệu an sinh xã hội, y tế, thông tin vaccine, xét nghiệm COVID-19, Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bảo đảm xác thực chính xác thông tin.
Bộ Công an khẩn trương phối hợp với các bộ, ngành, địa phương cập nhật cơ sở dữ liệu dùng chung về người dân, trên cơ sở Luật Căn cước công dân và Luật Cư trú năm 2020, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành; xây dựng, phát triển hệ thống và cấp định danh phương tiện, động sản, bất động sản, triển khai các dịch vụ chia sẻ dữ liệu để nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước và phát triển kinh tế-xã hội; phối hợp với các bộ, ngành chưa có hệ thống công nghệ thông tin hoặc đang quyết định đầu tư xây dựng, chủ động cập nhật dữ liệu vào hệ thống dân cư, sau khi các cơ quan, đơn vị có hạ tầng thì chuyển bàn giao.
Hoàn thiện thể chế
Về hoàn thiện thể chế, các bộ, ngành, địa phương khẩn trương rà soát, tháo gỡ theo thẩm quyền hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền tháo gỡ những vướng mắc, bất cập về quy định của pháp luật có liên quan để tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất, tổng thể và tổ chức thực hiện hiệu quả.
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng nghị định của Chính phủ về quản lý, thu thập dữ liệu cá nhân, trong đó xác định cụ thể trách nhiệm thu thập, cập nhật dữ liệu, trách nhiệm làm sạch dữ liệu và xác thực dữ liệu; xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị quyết tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, trong việc đầu tư, xây dựng, phát triển, tích hợp, chia sẻ các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu liên quan đến dân cư phục vụ quản lý Nhà nước và cung cấp dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Bộ Công an khẩn trương xây dựng Đề án thu phí gửi Bộ Tài chính để nghiên cứu, ban hành Thông tư quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; hoàn thành trong quý II/2022.
Công nhận 2 xã An toàn khu tại tỉnh Quảng Nam
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh vừa ký Quyết định số 297/QĐ-TTg ngày 2/3/2022 công nhận 2 xã An toàn khu tại tỉnh Quảng Nam.
2 xã được công nhận là xã An toàn khu gồm: xã Quế Phong thuộc huyện Quế Sơn; xã Tư thuộc huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.
2 xã trên được thực hiện chính sách ưu đãi đối với xã An toàn khu theo quy định hiện hành của pháp luật.
Phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng
Phó Thủ tướng chính phủ Lê Văn Thành ký Quyết định 295/QĐ-TTg ngày 2/3/2022 phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng đến năm 2040.
Phạm vi lập quy hoạch theo ranh giới thành lập Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng (Quyết định số 20/2014/QĐ-TTg ngày 11/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng), bao gồm một phần hoặc toàn bộ diện tích của 31 xã và 3 thị trấn biên giới (từ xã Cần Nông, huyện Hà Quảng đến xã Đức Long, huyện Thạch An).
Quy mô lập quy hoạch Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng có diện tích khoảng 30.130 ha.
Dự báo đến năm 2030, dân số khoảng 73.000-78.000 người (trong đó dân số quy đổi khoảng 16.000-19.000 người); dân số đô thị khoảng 35.000-37.000 người. Nhu cầu sử dụng đất xây dựng các khu chức năng khoảng 3.800-3.900 ha.
Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng phân chia thành 4 vùng
Trên cơ sở các điều kiện tự nhiên, phát triển kinh tế-xã hội, các mối liên kết phát triển, điều kiện phát triển của các khu vực cửa khẩu, lối mở, các vùng cảnh quan, hệ thống đô thị và dân cư nông thôn, Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng được phát triển theo mô hình chuỗi kết nối trên tuyến hành lang biên giới, được chia thành 04 phân vùng, trong đó mỗi phân vùng có một trung tâm kinh tế cửa khẩu chính, là những cực phát triển của phân vùng. Các trung tâm của phân vùng được kết nối trực tiếp với hệ thống cửa khẩu của Trung Quốc và kết nối với trung tâm kinh tế của tỉnh (thành phố Cao Bằng), các khu vực trong và ngoài tỉnh Cao Bằng thông qua các tuyến giao thông chính: đường cao tốc Đồng Đăng-Trà Lĩnh, Quốc lộ 3, Quốc lộ 4, Quốc lộ 34.
Vùng 1 (vùng kinh tế cửa khẩu phía Tây), bao gồm các xã biên giới của huyện Hà Quảng; diện tích quy hoạch khoảng 4.018 ha, quy mô dân số đến năm 2040 khoảng 8.000-9.000 người, trung tâm là khu cửa khẩu-đô thị Sóc Giang.
Vùng 2 (vùng kinh tế cửa khẩu phía Bắc) bao gồm khu vực các thôn xã của huyện Trùng Khánh; diện tích quy hoạch khoảng 8.134 ha, quy mô dân số đến năm 2040 khoảng 30.000-32.000 người; trung tâm là khu cửa khẩu-thị trấn Trà Lĩnh.
Vùng 3 (vùng kinh tế cửa khẩu phía Đông Bắc), bao gồm các xã biên giới của huyện Hạ Lang; diện tích quy hoạch khoảng 3.346 ha, dân số đến năm 2040 khoảng 7.500-8.000 người; trung tâm là khu cửa khẩu Lý Vạn.
Vùng 4 (vùng kinh tế cửa khẩu phía Đông), bao gồm các khu vực biên giới của huyện Quảng Hòa và Thạch An; diện tích quy hoạch khoảng 14.632 ha, quy mô dân số đến năm 2040 khoảng 51.000-53.000 người, trung tâm là cửa khẩu Tà Lùng-đô thị Phục Hòa.
Quy hoạch nâng cấp cửa khẩu Lý Vạn lên thành cửa khẩu quốc tế
Về định hướng quy hoạch hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội, quyết định nêu rõ cửa khẩu quốc tế: Tà Lùng, Trà Lĩnh (bao gồm cả lối thông quan hàng hóa Nà Đoỏng). Quy hoạch nâng cấp cửa khẩu Lý Vạn lên thành cửa khẩu quốc tế.
Cửa khẩu chính Sóc Giang. Quy hoạch nâng cấp cửa khẩu phụ Pò Peo lên cửa khẩu chính. Cửa khẩu phụ Hạ Lang. Quy hoạch nâng cấp lối mở Nà Lạn (xã Đức Long, huyện Thạch An) lên thành cửa khẩu phụ.
Đối với các lối mở, quy hoạch, đầu tư nâng cấp thành các lối thông quan thuộc các cửa khẩu khi đủ điều kiện: Lối mở Trúc Long, Nà Quân là lối thông quan hàng hóa thuộc cửa khẩu Sóc Giang; lối mở Đình Phong (mở mới) là lối thông quan hàng hóa thuộc cửa khẩu Pò Peo; lối mở biên giới Bản Giốc thực hiện theo các văn bản, Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch Thác Bản Giốc (Việt Nam) – Đức Thiên (Trung Quốc); lối mở Bản Khoòng là lối thông quan hàng hóa thuộc cửa khẩu Lý Vạn; lối mở Pò Tập, Cốc Sâu là lối thông quan hàng hóa thuộc cửa khẩu Tà Lùng. Duy trì lối mở Pác Ty và Kỷ Sộc hiện có.
4 khu du lịch chính
Định hướng phát triển hệ thống dịch vụ du lịch của Khu kinh tế trong mối liên hệ kết nối, hỗ trợ và chia sẻ với hệ thống dịch vụ du lịch của tỉnh mà trung tâm là thành phố Cao Bằng. Các khu du lịch chính gồm:
- Khu du lịch gắn với di tích lịch sử Pác Bó và di tích Kim Đồng, quy mô khoảng 1.137 ha (xã Trường Hà, huyện Hà Quảng).
- Khu du lịch Thác Bản Giốc, động Ngườm Ngao, quy mô khoảng 1000 ha (xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh).
- Khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng Ngườm Lồm Nặm Khao, quy mô khoảng 36 ha (xã Mỹ Hưng, huyện Quảng Hòa).
- Quy hoạch khu phức hợp dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng, thể dục thể thao (sân golf), vui chơi giải trí; quy mô khoảng 200-250 ha tại xã Đình Phong (huyện Trùng Khánh).
Phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái nông nghiệp tại các vùng nông nghiệp, làng bản thuộc xã Đức Long (Thạch An), xã Đình Phong (huyện Trùng Khánh), thị trấn Tà Lùng, xã Mỹ Hưng, xã Cách Linh (huyện Quảng Hòa). Phát triển du lịch tham quan mua sắm tại các cửa khẩu lối mở, trong đó trọng tâm là trung tâm du lịch mua sắm Phục Hòa, Trà Lĩnh./.