• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

(Chinhphu.vn) - Thông cáo báo chí của VPCP về thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

23/01/2019 09:20
Nhân sự Đài Tiếng nói Việt Nam và UBND TP Đà Nẵng

Thủ tướng Chính phủ vừa có quyết định bổ nhiệm Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, phê chuẩn bầu bổ sung, miễn nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng.

Cụ thể, tại Quyết định 99/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm ông Ngô Minh Hiển, Trưởng ban Ban Tổ chức cán bộ, Đài Tiếng nói Việt Nam, giữ chức vụ Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam.

Tại Quyết định 88/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu bổ sung chức vụ Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng nhiệm kỳ 2016 - 2021 đối với ông Lê Trung Chinh, Thành ủy viên, Bí thư Quận ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân quận Ngũ Hành Sơn.

Đồng thời, tại Quyết định 87/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả miễn nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng nhiệm kỳ 2016 - 2021 đối với ông Nguyễn Ngọc Tuấn để nghỉ hưu theo chế độ.

Tiêu chí xác định xã, thôn hoàn thành mục tiêu Chương trình 135

Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí xác định xã, thôn hoàn thành mục tiêu Dự án 2 (Chương trình 135) thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020.

Tiêu chí xã hoàn thành mục tiêu Chương trình 135

Theo đó, xã hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 là xã đạt được một trong hai tiêu chí sau:

1- Được cấp có thẩm quyền công nhận đạt chuẩn nông thôn mới hoặc được nâng lên phường, thị trấn.

2- Đạt 4 điều kiện tại điểm a và tối thiểu 2 trong 6 điều kiện tại điểm b như sau:

a- Điều kiện phải đạt:

- Có tổng tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2016 - 2020 dưới 35%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo dưới 20% (đối với các xã biên giới và xã an toàn khu không thuộc khu vực III, xã thuộc các tỉnh khu vực Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long: có tổng tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2016 - 2020 dưới 25%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo dưới 15%).

- Đường giao thông đạt tiêu chí 2, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 quy định tại Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 (Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới).

- Trường học đạt tiêu chí 5, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới.

- Đạt tiêu chí quốc gia về y tế.

b- Điều kiện linh hoạt

- Hệ thống thủy lợi đạt tiêu chí 3, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới.

- Điện đạt tiêu chí 4, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới.

- Cơ sở vật chất văn hóa đạt tiêu chí 6.1, 6.3, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới.

- Đài truyền thanh đạt tiêu chí 8.3, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới.

- Tỷ lệ hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch đạt tiêu chí 17.1, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới.

- Có trên 15% đại diện hộ nghèo, cận nghèo trong xã và trên 50% tổng số cán bộ cơ sở đã được tập huấn nâng cao năng lực thuộc Chương trình 135 và các chương trình, dự án, chính sách khác giai đoạn 2016 - 2020.

Tiêu chí Thôn hoàn thành mục tiêu Chương trình 135

Theo quy định, thôn hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 là thôn đạt được một trong ba tiêu chí sau:

1- Thôn của xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới hoặc thôn được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.

2- Thôn có tổng tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo từ 55% (các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long từ 30%) đến dưới 65% theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020 và đạt tối thiểu hai trong ba điều kiện:

- Trục chính đường giao thông thôn hoặc liên thôn được cứng hóa theo tiêu chí nông thôn mới.

- Từ 60% trở lên số phòng học cho lớp mẫu giáo, mầm non được xây dựng kiên cố.

- Có Nhà văn hóa - Khu thể thao thôn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

3- Thôn có tổng tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo dưới 55% (các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long dưới 30%) theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020 và đạt tối thiểu một trong ba điều kiện:

- Trục chính đường giao thông thôn hoặc liên thôn được cứng hóa theo tiêu chí nông thôn mới.

- Từ 60% trở lên số phòng học cho lớp mẫu giáo, mầm non được xây dựng kiên cố.

- Có Nhà văn hóa - Khu thể thao thôn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Xuất cấp gạo cho 6 tỉnh dịp Tết Nguyên đán

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký Quyết định số 106/QĐ-TTg xuất cấp gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho các địa phương để hỗ trợ nhân dân dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019.

Thủ tướng giao Bộ Tài chính xuất cấp (không thu tiền) 3.718,350 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc cho 6 địa phương để hỗ trợ nhân dân dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợp 2019.

Cụ thể, tỉnh Hà Giang được xuất cấp 359,700 tấn gạo; tỉnh Phú Yên 399,090 tấn gạo; tỉnh Bình Định 1.000,005 tấn gạo; tỉnh Quảng Bình được xuất cấp 975,570 tấn gạo; tỉnh Yên Bái 380,310 tấn gạo và tỉnh Cao Bằng 603,675.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung và số liệu báo cáo.

UBND các tỉnh: Hà Giang, Phú Yên, Bình Định, Quảng Bình, Yên Bái, Cao Bằng tiếp nhận và sử dụng số gạo được cấp, bảo đảm hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng theo quy định.

Xuất cấp gạo cho tỉnh Nghệ An

Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 102/QĐ-TTg về việc xuất cấp gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho tỉnh Nghệ An để hỗ trợ nhân dân dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019.

Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính xuất cấp (không thu tiền) 1.264,860 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho tỉnh Nghệ An để hỗ trợ nhân dân dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung và số liệu báo cáo. UBND tỉnh Nghệ An tiếp nhận và sử dụng số gạo được cấp, bảo đảm hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng theo quy định.

Cấp 19 ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng Chính phủ quyết định cấp 19 ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn” giai đoạn 2019 - 2021.

Cụ thể, cấp 19 ấn phẩm báo, tạp chí nhằm tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2019 - 2021 gồm:

1- Báo Dân tộc và Phát triển (Ủy ban Dân tộc) - Phát hành 02 kỳ/tuần (104 kỳ/năm), cấp cho UBND xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, thôn bản đặc biệt khó khăn thuộc xã khu vực III và chùa Khmer, mỗi đơn vị 01 tờ/1 kỳ.

2- Tạp chí Dân tộc (Ủy ban Dân tộc) - Phát hành 01 kỳ/tháng (12 kỳ/năm), cấp cho UBND xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

3- Chuyên trang “Dân tộc thiểu số và miền núi” trên Báo Nhân dân hàng ngày (Báo Nhân dân) - 01 trang/kỳ (01 kỳ/tuần tương ứng với 52 kỳ/năm), cấp cho người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, mỗi người 01 tờ/kỳ.

4- Chuyên đề “Dân tộc thiểu số và miền núi” của Báo Đại biểu nhân dân (Văn phòng Quốc hội) - Phát hành 01 kỳ/tuần (52 kỳ/năm), cấp cho Hội đồng nhân dân xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

5- Chuyên đề “Dân tộc thiểu số và miền núi” của Báo Đại đoàn kết (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) - Phát hành 01 kỳ/tuần (52 kỳ/năm), cấp cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi và chùa Khmer, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

6- Chuyên đề “Dân tộc thiểu số và miền núi” của Báo Nông thôn ngày nay (Trung ương Hội Nông dân Việt Nam) - Phát hành 01 kỳ/tuần (52 kỳ/năm), cấp cho Hội nông dân xã thuộc khu vực III, chi hội nông dân thôn bản đặc biệt khó khăn thuộc xã khu vực III, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

7- Chuyên đề “Dân tộc thiểu số và miền núi” của Báo Tiền phong (Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh) - Phát hành 01 kỳ/tuần (52 kỳ/năm), cấp cho Đoàn xã thuộc khu vực III, chi đoàn thôn bản đặc biệt khó khăn thuộc xã khu vực III, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

8- Chuyên đề “Dân tộc thiểu số và miền núi” của Báo Công thương (Bộ Công Thương) - Phát hành 01 kỳ/tuần (52 kỳ/năm), cấp cho Ủy ban nhân dân xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

9- Chuyên đề “Dân tộc thiểu số và miền núi” của Báo Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) - Phát hành 01 kỳ/tuần (52 kỳ/năm), cấp cho Ủy ban nhân dân xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

10- Chuyên đề “Dân tộc thiểu số và miền núi” của Báo Sức khỏe và  Đời sống (Bộ Y tế) - Phát hành 01 kỳ/tuần (52 kỳ/năm), cấp cho Ủy ban nhân dân xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

11- Chuyên đề “Măng non” của Báo Nhi đồng (Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh) - Phát hành 02 kỳ/tháng (24 kỳ/năm), cấp cho Trường Tiểu học các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mỗi lớp 01 tờ/kỳ.

12- Chuyên đề “Thiếu nhi Dân tộc” của Báo Thiếu niên Tiền phong (Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh) - Phát hành 02 kỳ/tháng (24 kỳ/năm), cấp cho Trường Trung học cơ sở các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi; Trường Dân tộc nội trú, Dân tộc bán trú cụm xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mỗi lớp 01 tờ/kỳ.

13- Chuyên đề “Dân tộc thiểu số và miền núi” của Báo Cựu chiến binh Việt Nam (Hội Cựu chiến binh Việt Nam) - Phát hành 02 kỳ/tháng (24 kỳ/năm), cấp cho Hội Cựu chiến binh xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

14- Chuyên đề “Dân tộc thiểu số và miền núi” của Báo Phụ nữ Việt Nam (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) - Phát hành 02 kỳ/tháng (24 kỳ/năm), cấp cho Hội phụ nữ xã thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

15- Chuyên đề “Dân tộc thiểu số và miền núi” của Báo Tin tức (Thông tấn xã Việt Nam) - Phát hành 01 kỳ/tuần (52 kỳ/năm), cấp cho Ủy ban nhân dân xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

16- Chuyên đề “Dân tộc thiểu số và miền núi” Báo Tài nguyên và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) - Phát hành 02 kỳ/tháng (24 kỳ/năm), cấp cho Ủy ban nhân dân xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

17- Phụ trương "An ninh biên giới" của Báo Biên phòng (Bộ Tư lệnh Bộ  đội biên phòng) - Phát hành 02 kỳ/tháng (24 kỳ/năm), cấp cho thôn bản thuộc các xã, phường biên giới, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

18- Chuyên đề “Thanh niên khởi nghiệp - Làm giàu” (Báo Tuổi trẻ Thủ  đô) - Phát hành 01 kỳ/tuần (52 kỳ/năm), cấp cho Đoàn xã thuộc khu vực III, chi đoàn thôn bản đặc biệt khó khăn thuộc xã khu vực III, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

19- Chuyên đề “Dân tộc và miền núi” (Hội Chữ thập đỏ Việt Nam) - Phát hành 02 kỳ/tháng (24 kỳ/năm), cấp cho Hội Chữ thập đỏ các xã thuộc khu vực III, Chi Hội chữ thập đỏ thôn bản đặc biệt khó khăn thuộc xã khu vực III và Chùa Khmer, mỗi đơn vị 01 tờ/kỳ.

Kinh phí thực hiện chính sách cấp một số ấn phẩm báo, tạp chí do ngân sách Trung ương bảo đảm và được bố trí trong dự toán hằng năm của Ủy ban Dân tộc.

Ủy ban Dân tộc chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan và các địa phương liên quan quản lý, chỉ đạo; hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc thực hiện; kiểm tra, đánh giá hiệu quả chính sách cấp một số ấn phẩm báo, tạp chí.

Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục mầm non

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 33/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục mầm non giai đoạn 2018-2025.

Mục tiêu của Đề án là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non bảo đảm chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục mầm non; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục mầm non góp phần thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Trong đó, phấn đấu giai đoạn 2018-2020, đào tạo nâng cao trình độ, bảo đảm ít nhất 70% giáo viên mầm non đạt trình độ từ cao đẳng sư phạm mầm non trở lên, 80% giáo viên mầm non đạt chuẩn nghề nghiệp mức độ khá trở lên; đào tạo bổ sung, thay thế số giáo viên nghỉ hưu, số giáo viên tăng thêm theo tỷ lệ huy động trẻ và số giáo viên còn thiếu hiện nay; phấn đấu 100% giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non cốt cán được bồi dưỡng năng lực hỗ trợ đồng nghiệp tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thường xuyên, liên tục, ngay tại trường, năng lực tổ chức thực hiện Chương trình giáo dục mầm non; 100% giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non được bồi dưỡng nâng cao năng lực tương ứng theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non, chuẩn hiệu trưởng.

Đến giai đoạn 2021-2025, phấn đấu 100% giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non cốt cán được bồi dưỡng năng lực hỗ trợ đồng nghiệp tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thường xuyên, liên tục, ngay tại trường; từng bước tiếp cận với trình độ của giáo viên các nước tiên tiến trong khu vực ASEAN; 100% giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non được bồi dưỡng nâng cao năng lực theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non mới, chuẩn hiệu trưởng mới.

Phấn đấu 100% giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục được đào tạo đạt chuẩn về trình độ, trong đó 40% giảng viên và cán bộ quản lý đạt chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ chuyên ngành, 30% giảng viên đại học và 8% giảng viên cao đẳng đạt trình độ tiến sĩ; bảo đảm 100% giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục được bồi dưỡng nâng cao năng lực giảng dạy, giáo dục, quản lý, năng lực ngoại ngữ và công nghệ thông tin.

Những giải pháp Đề án đưa ra nhằm đạt được các mục tiêu trên là: Đổi mới công tác truyền thông, công tác quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non; nâng cao năng lực các trường, khoa sư phạm đào tạo giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non; đổi mới công tác đào tạo giáo viên mầm non, nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non; đẩy mạnh xã hội hóa và hội nhập quốc tế công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non...

Nâng cao chất lượng giáo dục đại học

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án nâng cao chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2019 - 2025 nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực chất về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của hệ thống giáo dục đại học đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực, góp phần nâng cao chất lượng và năng suất lao động...

100% cơ sở giáo dục đại học thực hiện tốt cơ chế tự chủ

Đề án phấn đấu 100% sinh viên tốt nghiệp đạt chuẩn đầu ra kể cả chuẩn trình độ ngoại ngữ, tin học, kỹ năng mềm để sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động.

Về điều kiện bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục, Đề án phấn đấu 100% giảng viên đại học có trình độ thạc sĩ hoặc tương đương trở lên, trong đó  ít nhất 35% có trình độ tiến sĩ. 100% cơ sở giáo dục đại học (đủ điều kiện) thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, trong đó khoảng 10% được kiểm định bởi các tổ chức kiểm định nước ngoài có uy tín. Trên 35% chương trình đào tạo được kiểm định trong nước hoặc nước ngoài, trong đó 100% chương trình đào tạo giáo viên ở tất cả các trình độ được kiểm định.

Đề án cũng đặt ra mục tiêu 100% cơ sở giáo dục đại học thực hiện tốt cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình.

Về hội nhập quốc tế, Đề án phấn đấu 100% cơ sở giáo dục đại học khai thác và sử dụng các chương trình đào tạo, học liệu mở được chia sẻ trực tuyến bởi các trường đại học có uy tín trên thế giới; có ít nhất 02 cơ sở giáo dục đại học được xếp hạng trong số 100 trường đại học tốt nhất châu Á, 10 cơ sở giáo dục đại học được xếp hạng trong số 400 trường đại học tốt nhất châu Á, 04 cơ sở giáo dục đại học được xếp hạng trong số 1.000 trường đại học hàng đầu thế giới theo các bảng xếp hạng quốc tế có uy tín.

Trên 50% cơ sở giáo dục đại học sử dụng toàn bộ hoặc tích hợp một phần nội dung chương trình đào tạo và giáo trình của nước ngoài vào các chương trình đào tạo của nhà trường; phấn đấu 100% chương trình đào tạo có mục tiêu, nội dung được thiết kế đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thị trường lao động.

Nhiệm vụ trong thời gian tới của Đề án là đẩy mạnh thực hiện tự chủ, đổi mới quản trị giáo dục đại học gắn với cơ chế quản lý và giám sát hiệu quả; tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng và đẩy mạnh kiểm định chất lượng giáo dục đại học; đổi mới quản lý đào tạo, chương trình, phương pháp đào tạo; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và phục vụ cộng đồng; đẩy mạnh quốc tế hóa giáo dục đại học; xây dựng và triển khai Hệ thống thu thập thông tin, phân tích và dự báo cung - cầu nguồn nhân lực trình độ cao; xây dựng cơ chế, chính sách tạo nguồn lực, động lực và môi trường cạnh tranh lành mạnh phát triển giáo dục đại học.

Thí điểm xây dựng làng đại học quốc tế

Trong đó, Đề án lựa chọn, xây dựng và vận hành hiệu quả một số mô hình quản trị đại học phù hợp với điều kiện của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Đổi mới công tác quản trị, giảm can thiệp hành chính từ các cơ quan Nhà nước, bảo đảm tăng cường minh bạch, công khai; chuyển từ mô hình quản lý sang quản trị có hiệu quả; đổi mới và hoàn thiện hệ thống đào tạo giáo viên, các tiêu chuẩn giảng viên đại học theo chức danh và trình độ. Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên, ưu tiên đầu tư cho một số trường đại học sư phạm trọng điểm.

Hình thành một số trung tâm thực hành, thí nghiệm hiện đại dùng chung cho các cơ sở giáo dục đại học; thí điểm xây dựng một số làng đại học quốc tế thu hút các cơ sở giáo dục đại học có uy tín của nước ngoài tham gia đào tạo và nghiên cứu quốc tế.

Kiểm soát chất lượng dịch vụ vận tải và bảo đảm ATGT cho khách du lịch

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án kiểm soát chất lượng dịch vụ vận tải và bảo đảm an toàn giao thông cho khách du lịch.

Mục tiêu của Đề án đến 2025 có 80% công trình đầu mối vận tải hành khách (bến xe khách loại 3 trở lên, trạm dừng nghỉ đường bộ, ga đường sắt, cảng bến thủy nội địa, cảng biển, cảng hàng không) được trang bị cơ sở vật chất, dịch vụ tiện nghi phục vụ hành khách và giao thông kết nối thông suốt, an toàn đến các khu du lịch, điểm du lịch.

100% các tuyến đường bộ cao tốc được ứng dụng giao thông thông minh trong quản lý, khai thác; từng bước xóa bỏ các điểm đen, điểm tiềm ẩn nguy cơ cao mất an toàn giao thông trên các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa; đầu tư xây dựng mới một số bến xe khách du lịch, cảng bến hành khách thủy nội địa, cảng hành khách đường biển, cảng hàng không và các tuyến đường bộ, đường sắt trọng điểm theo quy hoạch, kế hoạch tại các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch.

Về phát triển phương tiện vận tải khách du lịch, 100% phương tiện vận tải khách du lịch đường bộ, đường thủy nội địa phải có các trang thiết bị về chất lượng dịch vụ và an toàn kỹ thuật theo quy định; đầu tư phát triển các phương tiện vận tải khách du lịch sử dụng công nghệ mới trong bảo đảm an toàn kỹ thuật phương tiện và bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng.

Bảo đảm an toàn kết cấu hạ tầng giao thông hỗ trợ phát triển du lịch

Một trong những nhiệm vụ và giải pháp của Đề án là đầu tư xây dựng và nâng cao điều kiện bảo đảm an toàn kết cấu hạ tầng giao thông hỗ trợ phát triển du lịch. Cụ thể, rà soát, nâng cấp, cải tạo các đầu mối vận tải hành khách (bến xe khách loại 3 trở lên, ga đường sắt, cảng thủy nội địa, cảng biển, cảng hàng không, trạm dừng nghỉ đường bộ), bảo đảm bố trí tối ưu các khu chức năng, trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị, dịch vụ tiện nghi phục vụ hành khách (gồm cả hành khách là người khuyết tật).

Bên cạnh đó, rà soát, bổ sung hệ thống biển chỉ dẫn giao thông, thông tin du lịch trên các tuyến đường bộ xuyên Á, các tuyến đường bộ chính yếu dẫn đến các cửa khẩu quốc tế, các trung tâm lưu trú du lịch, khu du lịch; rà soát, xử lý các điểm đen, điểm tiềm ẩn nguy cơ cao mất an toàn giao thông trên các tuyến đường bộ, đường thủy nội địa.

Đồng thời, rà soát, cải tạo hệ thống đường ngang đường sắt; kiên quyết xóa bỏ các lối đi tự mở trên địa bàn khu vực đông dân cư, thuộc các khu đoạn đường sắt có tốc độ và mật độ chạy tàu cao; rà soát, bố trí các điểm đón, trả khách, bến, bãi đỗ xe phục vụ phương tiện vận tải khách du lịch tại các khu du lịch, điểm du lịch. Bảo đảm quỹ đất dành cho phát triển giao thông theo quy định, đặc biệt tại các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch.

Tập trung nguồn lực đầu tư các tuyến đường bộ chính yếu (cao tốc Bắc-Nam phía Đông...), các tuyến đường sắt phục vụ phát triển du lịch (tuyến đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt...); cải tạo luồng tuyến các tuyến vận tải hành khách từ bờ ra các đảo phát triển du lịch (Cô Tô, Cát Bà, Phú Quốc...).

Tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng một số đầu mối vận tải hành khách với cơ sở vật chất, trang thiết bị, dịch vụ tiện nghi kết nối thông suốt, an toàn đến các vùng du lịch như: Các bến xe khách du lịch có quy mô lớn tại các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch của các vùng du lịch; các cảng, bến hành khách thủy nội địa, cảng biển hành khách quốc tế tại các địa phương phát triển du lịch như: Quảng Ninh (Hạ Long), Hải Phòng (đảo Cát Bà), Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế (Chân Mây), Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa  - Vũng Tàu, Kiên Giang (đảo Phú Quốc)...; các trạm dừng nghỉ đường bộ trên các tuyến cao tốc, quốc lộ; cảng hàng không quốc tế Long Thành, Tân Sơn Nhất, Nội Bài.

Nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải khách du lịch

Nhiệm vụ và giải pháp khác là nâng cao chất lượng dịch vụ và điều kiện bảo đảm an toàn kỹ thuật của phương tiện vận tải khách du lịch. Cụ thể, tập trung đổi mới, phát triển đa dạng hóa phương tiện vận tải khách du lịch theo hướng hiện đại, tiện nghi, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và bảo vệ môi trường, đáp ứng nhu cầu đi lại của khách du lịch trong nước và quốc tế.

Trong đó, với phương thức vận tải hành khách du lịch đường bộ, tập trung phát triển đa dạng loại hình phương tiện và chất lượng dịch vụ; sử dụng công nghệ mới trong bảo đảm an toàn kỹ thuật, thân thiện với môi trường, tối thiểu đạt tiêu chuẩn khí thải EURO IV; với vận tải hành khách đường sắt, tập trung nâng cao chất lượng toa xe khách, ưu tiên đầu tư mới một số toa xe chất lượng cao trên các đoạn tuyến đường sắt có lưu lượng khách du lịch lớn như Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Vinh, Thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang - Quy Nhơn... tập trung đổi mới, sử dụng các loại tàu bay được trang bị điều kiện an toàn kỹ thuật, công nghệ hiện đại; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ, quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam trên các tuyến bay đến địa bàn trọng điểm phát triển du lịch trong nước và quốc tế.

Nâng cao chất lượng công tác đăng ký, đăng kiểm và tăng cường quản lý chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường giữa hai kỳ kiểm định đối với phương tiện vận tải khách du lịch.

Bảo đảm mức chi phí vận tải khách du lịch hợp lý, phù hợp với chất lượng dịch vụ cung cấp; có chính sách về giá vé, hình thức bán vé linh hoạt và đẩy mạnh ứng dụng vé thông minh kết nối đa phương thức; tăng cường cung cấp thông tin về chuyến đi và các dịch vụ hỗ trợ vận tải (tìm đường đi tối ưu, tra cứu giá cước, dịch vụ, kết nối các phương thức vận tải du lịch...) tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch.

Nâng cao nhận thức cộng đồng về chăm sóc sức khỏe

Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại cuộc làm việc với Hội giáo dục chăm sóc sức khỏe cộng đồng Việt Nam.

Thông báo nêu rõ, sau 10 năm thành lập, với tinh thần tự nguyện, tâm huyết và trách nhiệm, Hội giáo dục chăm sóc sức khỏe cộng đồng Việt Nam (Hội) đã không ngừng phát triển lớn mạnh với một hệ thống tổ chức đa dạng, phong phú và đã đạt được nhiều kết quả như: Thành lập được một số đơn vị để thực hiện các hoạt động chuyên môn, hỗ trợ thành lập chi Hội tại một số tỉnh, thành phố trong cả nước; quy tụ và huy động được nhiều lực lượng, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và các dòng họ cùng tham gia công tác y tế, giáo dục; triển khai hoạt động nghiên cứu giáo dục sớm cho trẻ em từ 0 đến 6 tuổi; đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng về chăm sóc sức khỏe được xã hội và người dân đánh giá cao. Hội đã có một số kiến nghị cụ thể, thiết thực về cơ chế, chính sách góp phần phát triển giáo dục, y tế.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ mong muốn Hội trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình trên cơ sở kết quả và kinh nghiệm hoạt động trong thời gian qua tiếp tục có nhiều đóng góp hơn nữa đối với công tác giáo dục và chăm sóc sức khỏe nhân dân, góp phần thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển giáo dục, chăm sóc sức khỏe nhân dân trong thời gian tới.

Đồng thời, Hội chủ động phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ, cơ quan liên quan tham mưu, kiến nghị các cơ chế chính sách về giáo dục, y tế nhất là việc hoàn thiện, nâng cao chất lượng y tế cơ sở, vận động, hỗ trợ người dân, nhất là người cao tuổi tham gia bảo hiểm y tế; nâng cao chất lượng giống nòi.

Hội cần phát huy hơn nữa thế mạnh về các lĩnh vực y tế cộng đồng, y học cổ truyền, rút ra những kinh nghiệm, những bài học tốt để cùng ngành y tế hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng tốt hơn.

Thủ tướng yêu cầu Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ, ngành liên quan, các địa phương xem xét tạo điều kiện để Hội tiếp tục phát triển và tham gia vào các Chương trình, Đề án về y tế, giáo dục, môi trường,... phù hợp chức năng, thế mạnh của Hội; triển khai các hoạt động giáo dục, chăm sóc sức khỏe cộng đồng tại địa phương; xóa bỏ các phong tục tập quán lạc hậu tại các vùng dân tộc thiểu số.

Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ động làm việc với Hội về công tác y tế, giáo dục, nhất là về chất lượng y tế cơ sở, Bảo hiểm y tế, giáo dục sớm cho trẻ em từ 0 đến 6 tuổi... để có giải pháp phù hợp triển khai hiệu quả.

Chuyển 2 đơn vị sự nghiệp công lập TP Hải Phòng thành Cty cổ phần

Thủ tướng Chính phủ đồng ý chuyển 2 đơn vị sự nghiệp công lập: Trung tâm Kiểm định kỹ thuật an toàn lao động Hải Phòng và Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới Hải Phòng thành công ty cổ phần, thực hiện trong giai đoạn 2019-2020.

Thủ tướng Chính phủ giao UBND thành phố Hải Phòng xây dựng phương án chuyển Trung tâm Kiểm định kỹ thuật an toàn lao động Hải Phòng và Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới Hải Phòng thành công ty cổ phần, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định theo đúng quy định tại Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg ngày 22/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ về chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần, Quyết định số 31/2017/QĐ-TTg ngày 17/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí, danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần và các văn bản pháp luật liên quan. 

Đồng thời chỉ đạo thực hiện việc rà soát, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất của các đơn vị sự nghiệp công lập nói trên trước khi thực hiện cổ phần hóa theo quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ quy định việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công.

Thủ tướng Chính phủ giao UBND thành phố Hải Phòng tiếp tục rà soát 4 đơn vị sự nghiệp công lập, gồm: Trung tâm Kiểm định chất lượng xây dựng, Trung tâm Tư vấn thiết kế công trình xây dựng Hải Phòng, Trung tâm Thương mại điện tử Hải Phòng và Trung tâm Giống và Phát triển nông nghiệp công nghệ cao Hải Phòng theo Quyết định số 31/2017/QĐ-TTg ngày 17/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định đối với các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện chuyển thành công ty cổ phần.

UBND thành phố Hải Phòng thực hiện sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc theo đúng tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và các quy định của pháp luật liên quan.

Thực hiện nghiêm quy định về khám sức khoẻ định kỳ cho lái xe

Các đơn vị kinh doanh vận tải bằng xe ô tô thực hiện nghiêm quy định về khám sức khoẻ định kỳ cho lái xe, trước hết là lái xe có khối lượng lớn, xe công-ten-nơ (hoàn thành trong quý I năm 2019).

Đó là nội dung tại Thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình - Chủ tịch Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia tại Hội nghị tổng kết công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông năm 2018; nhiệm vụ năm 2019.

Về nhiệm vụ trọng tâm năm 2019, Phó Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ xây dựng và thưc hiện Kế hoạch Năm An toàn giao thông 2019 với chủ  đề "An toàn giao thông cho hành khách và người đi mô tô, xe gắn máy" của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia nhằm tiếp tục giảm tai nạn giao thông từ 5-10% về số vụ, số người chết, bị thương so với năm 2018; giảm 10% con số thương vong do tai nạn giao thông liên quan đến vận tải hành khách và xe mô tô, xe gắn máy; tiếp tục kiểm soát và kéo giảm tình trạng ùn tắc giao thông trên các trục giao thông chính, các đầu mối giao thông trọng điểm và tại các đô thị lớn, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tập trung vào 8 nhiệm vụ trọng tâm.

Trong đó, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị; kiên trì xây dựng văn hoá giao thông an toàn và thân thiện môi trường cho mọi tầng lớp nhân dân; lấy xây dựng văn hoá an toàn trong cơ quan quản lý Nhà nước, lực lượng thực thi công vụ và doanh nghiệp giao thông vận tải làm động lực, tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục an toàn giao thông trong trường học với vai trò nêu gương của cha mẹ học sinh và thầy cô giáo; đồng thời phát huy vai trò của văn hoá, nghệ thuật truyền thống gắn với các kênh thông tin hiện đại, mạng xã hội, phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của thanh, thiếu niên. Phát huy vai trò các đoàn thể chính trị, xã hội trong tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia bảo đảm trật tự, an toàn giao thông (TTATGT), nâng cao hiệu quả các mô hình tự quản về bảo đảm TTATGT tại cơ sở.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công quản lý Nhà nước về bảo đảm an toàn giao thông. Trong đó, tập trung nâng cao năng lực, hiệu lực của lực lượng tuần tra, kiểm soát xử lý vi phạm; đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe, thuyền viên; đăng kiểm phương tiện; an toàn, an ninh hàng không; quản lý quy hoạch - trật tự xây dựng.

Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm gắn với duy tu, bảo đảm an toàn giao thông và khai thác có hiệu quả các công trình hạ tầng hiện hữu, tổ chức tách làn xe hai bánh với xe ô tô tại những đoạn tuyến quốc lộ có lưu lượng giao thông lớn; nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ hành lang an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa. Đối với công tác bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông cần tập trung rà soát, xử lý dứt điểm các điểm đen, điểm tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông, rà soát thu hẹp tiến tới xóa bỏ lối đi tự mở qua đường sắt. Bộ Giao thông vận tải và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố phải xây dựng danh mục, số liệu cụ thể về xoá điểm đen tai nạn giao thông, xoá lối đi tự mở trái phép qua đường sắt trong năm 2019 và các năm tiếp theo;...

Xử lý nghiêm các đối tượng cố tình phá hoại tài sản kết cấu hạ tầng giao thông

Về một số nhiệm vụ cấp bách, bên cạnh việc xây dựng, tổ chức triển khai Kế hoạch năm an toàn giao thông 2019, Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm chỉ  đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 1793/CĐ-TTg ngày 13/12/2018 về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trong dịp Tết Dương lịch, Tết Nguyên đán Kỷ Hợi và Lễ hội Xuân 2019; tổ chức tốt công tác vận tải hành khách, chỉnh trang hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông trong dịp Tết; tuần tra kiểm soát và xử lý vi phạm; thực hiện các giải pháp chống ùn tắc giao thông tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các tuyến quốc lộ trọng điểm. Trong đó, tăng cường tuyên truyền vận động gắn với xử lý nghiêm đối với người vi phạm nồng độ cồn khi lái xe và không đội mũ bảo hiểm đi mô tô, xe máy, xe đạp điện.

Trên cơ sở đề nghị của Bộ Giao thông vận tải, Phó Thủ tướng yêu cầu các Bộ (nhất là các Bộ: Công an, Giao thông vận tải, Thông tin và Truyền thông) và Ủy ban nhân dân các địa phương tiếp tục thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 82/CĐ-TTg ngày 18/1/2018 về bảo đảm an ninh trật tự tại các trạm thu phí BOT; có biện pháp xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các đối tượng có hành vi kích động, gây rối, cố tình phá hoại tài sản kết cấu hạ tầng giao thông, gây mất an ninh trật tự và an toàn giao thông, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư kinh doanh, trong đó có đầu tư theo hình thức BOT.

Bộ Giao thông vận tải khẩn trương hoàn thiện Nghị định quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải, trong đó chú  ý siết chặt các điều kiện về bảo đảm an toàn giao thông đối với hoạt động kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, đặc biệt là quy định trách nhiệm của đơn vị kinh doanh vận tải về quản lý thời gian lao động và khám sức khỏe của lái xe ô tô kinh doanh vận tải, trình Chính phủ trước ngày 31/1/2019.

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 25/VPCP-CN ngày 3/1/2019 của Văn phòng Chính phủ liên quan đến các vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng; kiên quyết không để xảy ra tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng trên địa bàn, cả trên đường bộ, đường sắt và đường thủy. Yêu cầu các đơn vị kinh doanh vận tải bằng xe ô tô thực hiện nghiêm quy định về khám sức khoẻ định kỳ cho lái xe, trước hết là lái xe có khối lượng lớn, xe công-ten-nơ (hoàn thành trong quý I năm 2019). Đẩy mạnh vận động các đoàn thể chính trị, xã hội tại địa phương tổ chức mô hình tự quản tham gia cảnh báo, điều tiết, hướng dẫn giao thông tại các vị trí thường xảy ra ùn tắc, tai nạn giao thông, các lối đi tự mở qua đường sắt; đồng thời xử lý trách nhiệm của tổ chức, cá nhân không thực hiện nghiêm quy định pháp luật và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về bảo đảm an toàn giao thông, để xảy ra tai nạn tại các lối đi tự mở qua đường sắt.

Chủ động theo dõi sát diễn biến giá để bình ổn thị trường

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ - Trưởng ban Chỉ đạo điều hành giá của Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cần chủ  động theo dõi sát diễn biến giá cả thị trường, rà soát, cân đối cung cầu để bình ổn thị trường; đặc biệt là trong các thời điểm lễ, Tết, bảo đảm lượng cung hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu người dân, nhất là các khu vực vùng sâu, vùng xa, các khu công nghiệp, khu chế xuất nơi tập trung nhiều người dân lao động.

Đó là một trong những nội dung tại phiên họp Ban Chỉ đạo điều hành giá do Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ - Trưởng ban Chỉ đạo điều hành giá của Chính phủ chủ trì để đánh giá kết quả thực hiện công tác điều hành giá năm 2018, dự báo và xây dựng kịch bản, phương hướng quản lý, điều hành giá, kiểm soát lạm phát năm 2019.

Năm 2018, điều hành giá đã góp phần kiểm soát lạm phát bình quân ở mức 3,54%

Năm 2018 trong điều kiện tình hình kinh tế quốc tế có nhiều biến động tác động đến thị trường tài chính, tiền tệ, hàng hóa thế giới và trong nước, công tác quản lý, điều hành giá đã có sự phối hợp điều hành chặt chẽ, chủ động giữa các bộ, ngành, địa phương thông qua hoạt động của Ban Chỉ đạo điều hành giá, đặc biệt là sự chỉ đạo kịp thời của Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng-Trưởng ban chỉ đạo điều hành giá... đã kịp thời chỉ đạo các biện pháp phù hợp nhằm kiểm soát lạm phát. Công tác điều hành giá đã  được thực hiện một cách chủ động, linh hoạt, thực hiện nhất quán nguyên tắc quản lý giá cả theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Việc điều chỉnh giá các mặt hàng thiết yếu và dịch vụ công theo lộ trình thị trường được thực hiện vào các thời điểm phù hợp, song song với việc bám sát mục tiêu kiểm soát lạm phát.

Kết quả điều hành giá đã góp phần kiểm soát lạm phát bình quân ở mức 3,54% năm 2018, là năm thứ ba liên tiếp đạt chỉ tiêu Quốc hội đề ra ở mức dưới 4% góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tạo niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào chỉ đạo điều hành của Chính phủ, củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô.

Kết quả đạt được trong năm 2018 có sự đóng góp chung của các bộ, ngành, địa phương thể hiện tinh thần trách nhiệm, phối kết hợp chặt chẽ để quyết liệt triển khai các giải pháp của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Ban chỉ  đạo điều hành giá; công tác truyền thông tạo sự  đồng thuận và củng cố niềm tin trong xã hội, góp phần kiểm soát được lạm phát kỳ vọng. Biểu dương các bộ, ngành, địa phương; đánh giá và ghi nhận nỗ lực với vai trò Thường trực Ban Chỉ đạo, Bộ Tài chính đã thể hiện được tinh thần trách nhiệm cao, chủ động phối hợp các bộ, ngành đề xuất các kịch bản điều hành giá, đề xuất các giải pháp phù hợp, toàn diện. Đánh giá cao công tác thông tin truyền thông, tuyên truyền, phổ biến của các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan thông tấn, báo chí đã góp phần tạo nên thành công cho công tác điều hành giá năm 2018, từ đó củng cố niềm tin của doanh nghiệp và người dân đối với công tác điều hành của Chính phủ, giúp kiểm soát được lạm phát kỳ vọng.

Cần tiếp tục phát huy các ưu điểm đúc kết từ kinh nghiệm trong công tác điều hành giá thời gian qua, để làm tốt hơn nữa công tác quản lý, điều hành đáp ứng nhiệm vụ Chính phủ, Quốc hội đề ra năm 2019 trong bối cảnh ngày càng nhiều biến động bất thường từ diễn biến địa chính – chính trị và thị trường hàng hóa thế giới.

Nâng cao năng lực tổng hợp, phân tích, tăng cường hơn nữa tinh thần trách nhiệm, sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành trong công tác dự báo, đánh giá tác động, đề xuất biện pháp, kịch bản điều hành giá cụ thể; thiết lập cơ chế phối hợp, nắm bắt thông tin hiệu quả giữa Trung ương và địa phương, trong đó, Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh việc kết nối thông tin, cập nhật giá cả hàng hóa, dịch vụ nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời cho công tác điều hành giá của Chính phủ.

Quyết tâm điều hành giá nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát từ 3,3% - 3,9%

Trong năm 2019, Quốc hội đã đề ra chỉ tiêu tốc độ tăng giá tiêu dùng bình quân năm khoảng 4%. Trên cơ sở đánh giá các yếu tố có thể tác động lên mặt bằng giá năm 2019 và căn cứ các kịch bản điều hành giá đã được thống nhất, Chính phủ quyết tâm điều hành giá nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát từ 3,3% đến 3,9%, kiểm soát lạm phát cơ bản trong khoảng 1,6-1,8%.

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cần chủ  động theo dõi sát diễn biến giá cả thị trường, rà soát, cân đối cung cầu để bình ổn thị trường; đặc biệt là trong các thời điểm lễ, Tết, bảo đảm lượng cung hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu người dân, nhất là các khu vực vùng sâu, vùng xa, các khu công nghiệp, khu chế xuất nơi tập trung nhiều người dân lao động.

Phân tích, tính toán, đề xuất các kịch bản điều hành giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực quản lý bảo đảm việc điều chỉnh giá với liều lượng, thời điểm hợp lý tương ứng với các kỳ điều hành, tránh điều chỉnh tập trung vào một thời điểm trong năm; công khai, minh bạch các chính sách điều hành giá và công tác thu, chi giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước quản lý.

Tiếp tục điều hành chính sách tài khóa chặt chẽ, chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra; tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp, chỉ  đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc điều hành giá của một số mặt hàng thiết yếu theo các giải pháp đã được đề ra theo nguyên tắc điều hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát; thận trọng trong việc điều hành giá những tháng đầu năm để bảo đảm dư địa điều hành cho CPI cả năm.

Tiếp tục chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền về điều hành giá nhất là các mặt hàng Nhà nước còn định giá, mặt hàng nhạy cảm đến người dân, công khai minh bạch thông tin về giá  để kiểm soát lạm phát kỳ vọng; hạn chế những thông tin thất thiệt gây hoang mang cho người tiêu dùng gây bất ổn thị trường.

Đối với việc điều hành giá một số mặt hàng quan trọng, thiết yếu như điện, xăng dầu, dịch vụ y tế, giáo dục... các bộ, ngành chủ động phối hợp với Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê để tính toán mức độ và thời điểm điều chỉnh phù hợp giúp kiểm soát mặt bằng giá chung, hạn chế tác động chi phí đẩy đến sản xuất, tiêu dùng và đời sống của người dân.