Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Hiện công ty của ông Hường tính trợ cấp thôi việc cho ông, trên HĐLĐ của ông có ghi như sau:
- Mức lương chính hoặc tiền công: 13.923.492 đồng/tháng.
- Các khoản trợ cấp gồm có: Trợ cấp kỹ thuật: 3.098.700 VND/tháng; Trợ cấp trách nhiệm: 3.098.700 VND/tháng; Trợ cấp đi lại: 206.580 VND/tháng
Công ty đã đóng nộp bảo hiểm xã hội (BHXH) cho ông theo mức lương chính, nên khi tính trợ cấp thôi việc, công ty cũng chỉ tính trên mức lương chính đang đóng BHXH. Phía công ty giải thích rằng, các khoản trợ cấp của ông không phải là các khoản phụ cấp nên không được tính vào lương để tính trợ cấp thôi việc. Ông Hường muốn được biết, cách giải thích đó của công ty có đúng không?
Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội trả lời câu hỏi của ông Hường như sau:
Tại khoản 2, Điều 41 Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về bảo hiểm thất nghiệp quy định: Thời gian người lao động thực tế làm việc theo các bản HĐLĐ với người sử dụng lao động mà không phải đóng bảo hiểm thất nghiệp thì được tính để xét hưởng trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của pháp luật lao động hiện hành.
Tiền lương, tiền công làm căn cứ tính chế độ trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo pháp luật về lao động là tiền lương, tiền công theo HĐLĐ, được tính bình quân của 6 tháng liền kề trước khi mất việc làm hoặc chấm dứt HĐLĐ, gồm tiền công hoặc tiền lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp chức vụ (nếu có).
Cùng với đó, tại Điều 42 Bộ luật Lao động hiện hành (ban hành năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007), đã được hướng dẫn tại Điều 14, Nghị định số 44/2003/NĐ-CP, Thông tư số 17/2009/TT-BLĐTBXH quy định việc tính trợ cấp thôi việc như sau:
Tiền trợ cấp thôi việc |
= |
Tổng thời gian làm việc tại doanh nghiệp tính trợ cấp thôi việc |
X |
Tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc |
X ½ |
Trường hợp, tổng thời gian làm việc tại doanh nghiệp tính trợ cấp thôi việc có tháng lẻ thì được làm tròn: Từ đủ 1 tháng đến dưới 6 tháng làm tròn thành ½ năm; từ đủ 6 tháng đến dưới 12 tháng làm tròn thành 1 năm.
Tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc là tiền lương, tiền công theo HĐLĐ, được tính bình quân của 6 tháng liền kề trước khi chấm dứt HĐLĐ, gồm tiền công hoặc tiền lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp chức vụ (nếu có).
Trường hợp ông Nguyễn Hường làm việc tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định. Khoản tiền lương tháng đã ghi trong HĐLĐ là 13.923.492 đồng/tháng là phù hợp với quy định của Chính phủ về mức lương tối thiểu vùng. Qua thông tin ông Hưởng cung cấp nhận thấy ông không phải là người giữ chức vụ quản lý trong công ty, nên không được hưởng phụ cấp chức vụ.
Như vậy, tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc của ông Hường là tiền lương đã ghi trong hợp đồng, được tính bình quân của 6 tháng liền kề trước khi chấm dứt HĐLĐ. Nếu tính đến thời điểm thôi việc ông Hưởng đã làm việc đủ 4 năm 6 tháng thì được làm tròn thành 5 năm. Cứ mỗi năm ông được hưởng ½ tháng lương.
Theo luật sư, các khoản trợ cấp mà ông được hưởng là khoản tiền mà doanh nghiệp hỗ trợ, trợ giúp cho ông, không phải là phụ cấp khu vực, phụ cấp chức vụ do đó các khoản trợ cấp này không được sử dụng làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật.
Luật sư Trần Văn Toàn
VPLS Khánh Hưng – Đoàn Luật sư Hà Nội
* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.
Các tin liên quan:
>> Chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động
>> Trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc làm
>> Mức lương làm căn cứ tính trợ cấp mất việc làm