Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Tọa đàm nhằm tập hợp trí tuệ đa ngành của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý xây dựng ý tưởng, tư vấn chính sách, đề xuất giải pháp thiết thực, khả thi cho Hà Nội, nhằm quy hoạch lại Thủ đô làm giảm ùn tắc giao thông; tăng cường trật tự đô thị; giảm ô nhiễm nguồn nước và không khí, giải quyết tình trạng ngập úng và rủi ro khí hậu.

GS.TS Hoàng Đình Phi phát biểu giới thiệu về MNS Think Tank - Ảnh: VGP
Nhân dịp này, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã ra mắt MNS Think Tank. Phát biểu về sự ra đời của MNS Think Tank, GS.TS Hoàng Đình Phi cho biết, ý tưởng thành lập Viện An ninh phi truyền thống đã được ấp ủ và hình thành trong suốt hơn 20 năm qua. Từ những nghiên cứu ban đầu còn rất khiêm tốn về an ninh phi truyền thống, khi trên thế giới gần như chỉ có một vài tài liệu sơ lược đến quá trình gặp gỡ, trao đổi học thuật với các nhà khoa học đầu ngành cùng sự đồng hành của nhiều nhà khoa học thuộc Học viện An ninh nhân dân và Đại học Quốc gia Hà Nội, nền tảng ban đầu của một trường phái khoa học mới đã dần được hình thành.
Trải qua hai thập niên, trường phái khoa học Quản trị An ninh phi truyền thống đã được định hình, phát triển cả về lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, Trường Quản trị Kinh doanh và Viện An ninh phi truyền thống đã hoàn thiện hồ sơ đăng ký xếp hạng quốc tế, qua đó được ghi nhận trong nhóm Top 50-100 thế giới về lĩnh vực Quản trị An ninh phi truyền thống.
Theo GS.TS Hoàng Đình Phi, hoạt động của Viện hiện tập trung vào bốn trụ cột chính: (i) Nghiên cứu phát triển học thuật và thiết kế các chương trình đào tạo mới nhằm đào tạo nguồn nhân lực "vừa hồng, vừa chuyên" cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; (ii) Nghiên cứu khoa học và chuyển giao tri thức, công nghệ cho các cấp lãnh đạo, chính quyền từ Trung ương đến địa phương; (iii) Tham vấn chính sách, chiến lược cho các vấn đề an ninh phi truyền thống; (iv) Tổ chức hội thảo, tọa đàm khoa học nhằm chia sẻ tri thức và tăng cường hợp tác quốc tế.
Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam trong lĩnh vực này hiện đang được xếp hạng cao trên các cơ sở dữ liệu học thuật quốc tế. Đáng chú ý, nhiều thuật ngữ khoa học như Management of Non-Traditional Security (MNS), Management of Technology Security, Management of Brand Security, Management of Economic Security… đều do các nhà khoa học Việt Nam khởi xướng và phát triển.
Từ cơ sở đó, các nhà khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội đã thống nhất thành lập Think Tank for Management of Non-Traditional Security (MNS Think Tank), với mục tiêu xây dựng một tổ chức nghiên cứu - tư vấn mạnh, áp dụng cách tiếp cận quản trị hệ thống để giải quyết những vấn đề liên ngành, liên lĩnh vực phức tạp của xã hội hiện đại.
MNS Think Tank được định hướng là một think tank công lập, hoạt động phi lợi nhuận, đặt dưới sự chủ trì của Viện An ninh phi truyền thống, tuân thủ nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Think Tank này không chỉ tập trung nghiên cứu dài hạn mà còn có khả năng tư vấn nhanh, đưa ra các giải pháp chiến lược trong thời gian ngắn, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn.
GS.TS Hoàng Đình Phi dẫn ví dụ về bài toán an ninh nguồn nước và ô nhiễm môi trường tại Hà Nội. Theo ông, nếu chỉ dựa vào các đề tài nghiên cứu truyền thống kéo dài nhiều năm, chi phí lớn nhưng hiệu quả chậm, thì đất nước sẽ phải trả giá rất đắt. Trong khi đó, mô hình think tank cho phép huy động trí tuệ liên ngành, đưa ra khuyến nghị chiến lược trong thời gian ngắn, kịp thời hỗ trợ quá trình ra quyết định.
Think Tank cũng được xác định là nơi tổ chức các tổ hợp tư vấn chiến lược, tham gia đấu thầu công khai, minh bạch các gói tư vấn cho Trung ương, địa phương, bộ, ngành và các đô thị lớn như Hà Nội. Trọng tâm là tư vấn chiến lược tổng thể, quy hoạch dài hạn, quản trị rủi ro và đảm bảo an ninh hệ thống trong các lĩnh vực như môi trường, nguồn nước, giao thông, kinh tế, đô thị và an ninh con người.
GS.TS Hoàng Đình Phi khẳng định: "Khoa học không thể chỉ nói nhiều, mà phải nói có trách nhiệm, có cơ sở khoa học, có khả năng thực thi". Việc thành lập MNS Think Tank nhằm tạo ra một cơ chế tập hợp trí tuệ, phá bỏ rào cản ngành nghề, thế hệ và tâm lý, để các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà công nghệ và doanh nghiệp cùng chung tay giải quyết những vấn đề lớn của đất nước, đặc biệt là của Thủ đô Hà Nội.

Trung tướng, GS.TS. Trần Vi Dân, Ủy viên kiêm Phó Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương, phát biểu tại Tọa đàm - Ảnh: VGP
Phát biểu tại Tọa đàm, Trung tướng, GS.TS. Trần Vi Dân, Ủy viên kiêm Phó Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương, cho biết: Chính phủ đã ban hành và tổ chức triển khai chiến lược phòng ngừa ứng phó với các thách thức đe dọa an ninh phi truyền thống. Việt Nam là một trong số ít quốc gia xây dựng được một chiến lược tổng thể, tích hợp và bao quát, và chiến lược sẽ tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trong thực tiễn triển khai và các hoạt động cụ thể.
Nhấn mạnh không thể tách rời các vấn đề của Thủ đô Hà Nội khỏi bối cảnh chung của cả nước bởi Hà Nội là địa bàn trọng điểm, luôn gắn bó hữu cơ với sự phát triển và an ninh quốc gia, Trung tướng, GS.TS. Trần Vi Dân cho rằng Hà Nội đang phải đối mặt đồng thời với hai nhóm thách thức an ninh phi truyền thống.
Thứ nhất là những thách thức xuất phát từ tự nhiên, bao gồm thiên tai, các vấn đề về đất đai, nguồn nước, môi trường không khí, dịch bệnh…
Thứ hai là các thách thức do con người trực tiếp tạo ra, như tội phạm và những nguy cơ mới về an ninh, trật tự trong bối cảnh một đại đô thị, đại trung tâm.
Những thách thức này đang xuất hiện với nguyên nhân và điều kiện hoàn toàn mới, nhiều yếu tố trước đây chưa thể lường hết. Có những vấn đề vốn không mới, song hiện nay tính chất phức tạp hơn, mức độ và hậu quả nghiêm trọng hơn, đặc biệt là tốc độ diễn biến ngày càng nhanh, đòi hỏi cách tiếp cận và giải pháp kịp thời, phù hợp hơn.
Do đó, điều quan trọng trước hết là phải trả lời được những câu hỏi căn bản: Các vấn đề này hình thành và phát triển trên cơ sở những quy luật nào? Cần làm rõ, cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, những nguyên nhân và điều kiện làm nảy sinh các thách thức an ninh phi truyền thống. Trên cơ sở đó, mới có thể đề xuất các giải pháp, kiến nghị xác đáng với Đảng, Nhà nước và chính quyền Thành phố nhằm xử lý vấn đề một cách căn cơ, bền vững.
Trung tướng, GS.TS. Trần Vi Dân cho rằng việc quản trị, quản lý và xử lý các thách thức này đòi hỏi một cách tiếp cận tổng thể, một bài toán mang tính hệ thống, được đặt trong khuôn khổ của chiến lược chung, thống nhất và dài hạn.
Đồng thời, nhìn nhận mọi chiến lược khi triển khai đều tạo ra những tác động xã hội sâu rộng và một chiến lược có thể không nhận được sự hưởng ứng ngay lập tức nếu tác động là thiệt hại trực tiếp liên quan đến lợi ích cá nhân, nên công tác tuyên truyền, vận động giữ vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là hướng tới thế hệ trẻ, những người sống với tương lai, có khả năng tiếp nhận và thay đổi nhận thức nhanh hơn. Khi nhận thức của lớp trẻ được nâng cao, những chuyển biến tích cực sẽ dần lan tỏa tới mỗi gia đình và toàn xã hội. Vì vậy, công tác tuyên truyền cần phải đi trước một bước. Bên cạnh việc nhận diện rõ vấn đề, chỉ ra những thách thức đang đặt ra, thì việc vận động quần chúng nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội và chuẩn bị nền tảng nhận thức là yếu tố then chốt, quyết định hiệu quả của quá trình triển khai các chiến lược trong thực tiễn.

Ông Khuất Việt Hùng, Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH MTV Đường sắt Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch chuyên trách Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia - Ảnh: VGP
Ông Khuất Việt Hùng, Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH MTV Đường sắt Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch chuyên trách Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia đề xuất cần gỡ vướng cho Hà Nội trong quản trị đô thị, từ đó có khuyến cáo với Hà Nội về "Mô hình quản trị đô thị dựa trên dữ liệu".
Đô thị gọi chung là không gian hoạt động của con người. Để các hoạt động diễn ra được thì hạ tầng là chính và định hình, định dạng đô thị, cung cấp không gian và điều kiện để bảo đảm các hoạt động của con người như: giao thông, năng lượng, nước, viễn thông liên lạc... Muốn có hạ tầng xã hội, phải có hạ tầng kỹ thuật. Tuy nhiên, Hà Nội hiện nay vẫn chưa có mô hình giao thông và cũng cần xem đã có các mô hình về thủy văn, không khí, phát sinh quản lý chất thải... chưa. Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, thành phố Hà Nội nên tập trung mạnh xây dựng các mô hình này bởi chúng ta có năng lực mạnh về công nghệ thông tin, công nghệ số. Từ đó có cơ chế đặc biệt cho các mô hình và để đến năm 2026 có được dự thảo về những mô hình này.
Ông Khuất Việt Hùng dẫn số liệu một khảo sát nhóm quy mô nhỏ ở Hà Nội (khoảng 8.000 người) cho thấy: Hệ số đi lại bình quân của một người là 3,5 chuyến/ngày; cự li dưới 6 km là 70,7%; xe máy chiếm 68,9% nhu cầu đi lại; ô tô chiếm 8,6% nhu cầu đi lại. Tuy nhiên về diện tích lòng đường, xe máy lại chiếm rất ít, ô tô chiếm 70%. Như vậy cần có giải pháp hiệu quả để giảm ách tắc giao thông trên địa bàn Hà Nội. Đến năm 2050 cơ cấu đi lại sẽ như thế nào, bao nhiêu phần trăm đường bộ, bao nhiêu phần trăm đường sắt, bao nhiêu phần trăm phi cơ giới... Để giải quyết được những vấn đề này phải có mô hình.
"Trong các quy hoạch đô thị, giao thông của Hà Nội hiện chưa có một mô hình giao thông cụ thể nào để tích hợp, kết nối với nhau. Nếu không có một mô hình giao thông gắn với đô thị; mô hình cấp nước, thoát nước với sử dụng đất; năng lượng gắn với sử dụng đất, mô hình thủy văn... thì không thể có tầm nhìn đến 2050", ông Khuất Việt Hùng nhấn mạnh.

Các đại biểu dự Tọa đàm - Ảnh: VGP
Đề cập đến thực trạng, thách thức, nguyên nhân và các giải pháp chống ngập lụt cho Thủ đô Hà Nội, một trong những vấn đề rất nóng, rất bức xúc hiện nay của Thành phố, PGS.TS Lê Văn Chín, Trưởng khoa Kỹ thuật Tài nguyên nước kiêm Viện trưởng Viện Kỹ thuật Tài nguyên nước, cho biết: Theo Quyết định số 725/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 10/5/2013 về Quy hoạch thoát nước Thủ đô Hà Nội, tổng công suất thoát nước của toàn Thành phố được xác định là khoảng 1.325 m³/giây. Điều này có nghĩa là trong một thời gian rất ngắn, chỉ khoảng hơn 1 giây, hệ thống phải bơm và tiêu thoát ra ngoài sông Hồng, sông Đáy trên 1.000 m³.
Theo quy hoạch, tổng diện tích hồ điều hòa của Hà Nội cần đạt khoảng gần 5.500 ha. Trong đó, riêng khu vực nội đô có yêu cầu công suất tiêu thoát khoảng 503 m³/giây. Tuy nhiên, đến nay, tổng công suất của các trạm bơm đã được đầu tư, xây dựng mới chỉ đạt khoảng 432 m³/giây, tương đương khoảng 32% so với yêu cầu theo quy hoạch. Tỉ lệ diện tích hồ điều hòa hiện mới đạt khoảng 18%, tức là chỉ hơn 1.000 ha. Đối với khu vực nội đô, công suất tiêu thoát hiện mới đạt khoảng 234 m³/giây, tương đương 46% so với nhu cầu đặt ra. Đây là những con số phản ánh rõ những hạn chế hiện nay của hệ thống thoát nước đô thị.
Về hành lang thoát nước chính của khu vực nội đô, hiện nay chủ yếu dựa vào các trục sông bao quanh và xuyên qua Thành phố, gồm sông Đáy, sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu và một số tuyến sông, kênh tiêu khác.
Hiện nay, khu vực duy nhất của Hà Nội được đầu tư hệ thống thoát nước tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh là lưu vực sông Tô Lịch. Tuy nhiên, hệ thống này cũng mới chỉ đáp ứng được kịch bản mưa khoảng 310 mm trong 2 ngày. Trong khi đó, thực tế những trận mưa lớn gần đây đều vượt xa ngưỡng này.
Đơn cử, năm 2008, Hà Nội đã trải qua đợt ngập lụt lịch sử, với phạm vi ngập rộng, giao thông tê liệt, nhiều khu vực bị ngập sâu và kéo dài trong nhiều ngày. Những năm gần đây, tình trạng này tiếp tục tái diễn. Năm 2024, trận bão Yagi đã khiến nhiều tuyến phố trung tâm đô thị bị ngập sâu, giao thông gần như tê liệt hoàn toàn. Năm 2025, cơn bão Bualoi vào tháng 9 tiếp tục gây ngập sâu tại nhiều tuyến đường trung tâm, với thời gian ngập kéo dài nhiều ngày, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt và hoạt động kinh tế - xã hội của người dân Thủ đô.
Hiện nay Hà Nội đã triển khai một số mô hình nhằm từng bước giải quyết bài toán ngập lụt. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, công tác thoát nước và chống ngập vẫn chưa được triển khai một cách bài bản, đồng bộ. Hà Nội đã xây dựng Trung tâm giám sát, điều hành hệ thống thoát nước, trực thuộc Công ty Thoát nước Hà Nội, với việc ứng dụng phần mềm HSDC Maps để quan trắc lượng mưa tại 44 trạm và mực nước tự động tại 50 trạm.
Tuy nhiên hệ thống này vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác chống ngập. Thứ nhất, số lượng trạm quan trắc mưa, mực nước và điểm ngập còn thiếu, chưa bao phủ đầy đủ toàn bộ đô thị. Thứ hai, hệ thống chưa có khả năng dự báo lượng mưa, mực nước và mức độ ngập; chưa mô phỏng được quá trình mưa, dòng chảy. Thứ ba, chưa tính toán và lựa chọn được các phương án vận hành tối ưu cho toàn hệ thống. Bên cạnh đó, chức năng hướng dẫn, cảnh báo điểm ngập cho người dân và các lực lượng chức năng vẫn còn nhiều hạn chế.
PGS.TS Lê Văn Chín chỉ ra một số nguyên nhân nổi bật gây ngập úng tại thành phố Hà Nội gồm:
Thứ nhất là tác động của biến đổi khí hậu, làm gia tăng cường độ mưa cực đoan. Trước đây, lượng mưa lớn trong ngày của Hà Nội thường dao động khoảng trên dưới 100 mm/ngày. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều trận mưa đã đạt mức gần 200 mm, thậm chí có những trận vượt 200–300 mm/ngày. Điều này cho thấy rõ xu hướng gia tăng mạnh của mưa cực đoan.
Thứ hai là quá trình đô thị hóa nhanh, làm suy giảm nghiêm trọng diện tích hồ điều hòa và không gian trữ nước. Trước đây, nhiều vùng chủ yếu là đất nông nghiệp, với hệ thống tiêu thoát nước nông nghiệp. Khi chuyển đổi sang đô thị và công nghiệp, bề mặt bị bê tông hóa, mật độ xây dựng dày đặc, hệ số tiêu tăng lên trong khi hệ thống thoát nước không được đầu tư tương ứng, dẫn tới áp lực rất lớn.
Thứ ba là sự thay đổi cao độ nền đô thị thiếu kiểm soát. Do công tác quy hoạch và quản lý chưa đồng bộ, nhiều khu đô thị tự quyết định cao độ nền riêng, dẫn tới tình trạng cao, thấp đan xen, cản trở dòng chảy tự nhiên, gây ngập úng cục bộ.
Thứ tư là hệ thống thoát nước chưa được đầu tư và kết nối đồng bộ. Hiện nay, Hà Nội tồn tại song song hệ thống thoát nước đô thị và hệ thống thủy lợi, nhưng hai hệ thống này chưa được kết nối và phối hợp vận hành một cách chặt chẽ, bài bản, làm giảm hiệu quả vận hành tổng thể.
Trên cơ sở đó, PGS.TS Lê Văn Chín đề xuất một số nhóm giải pháp, gồm hai nhóm chính là giải pháp công trình và giải pháp phi công trình.
- Đối với giải pháp công trình, tập trung vào ba nội dung chủ yếu: (i) Đẩy mạnh đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước theo Quy hoạch 275 đã được phê duyệt; (ii) Hoàn thiện và triển khai các đề án xử lý các điểm ngập úng cục bộ; (iii) Triển khai đồng bộ công tác quy hoạch và quản lý cao độ san nền, thoát nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; đồng thời thí điểm áp dụng mô hình thoát nước đô thị bền vững.
- Đối với giải pháp phi công trình, trước hết là định hướng quy hoạch hệ thống thoát nước theo tư duy "thuận thiên", ưu tiên khai thác lợi thế tự nhiên, tăng khả năng thích nghi, giảm rủi ro và tôn trọng không gian của nước. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác quản lý đô thị thoát nước thông qua hệ thống quản trị ngập thông minh, nhằm tối ưu hóa vận hành toàn hệ thống. Đồng thời, có thể triển khai các dự án đổi mới sáng tạo trong phòng, chống ngập lụt theo mô hình "ba nhà": Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp, để huy động và phát huy hiệu quả các nguồn lực xã hội.

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm - Ảnh: VGP
Trung tá, TS. Đào Việt Long, Phó Trưởng phòng Cảnh sát Giao thông (CSGT) Công an Thành phố Hà Nội: Thực hiện chỉ đạo của Bí thư Thành ủy, Công an Thành phố được giao nhiệm vụ cơ quan thường trực trong việc phối hợp xác định và tham gia giải quyết các điểm nghẽn lớn của Thủ đô. Thành ủy đã chỉ rõ 5 điểm nghẽn trọng tâm, bao gồm: Ùn tắc giao thông; ngập úng đô thị; trật tự đô thị; môi trường; và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phòng Cảnh sát giao thông là đơn vị trực tiếp thực hiện nhiệm vụ, đồng thời là cơ quan thường trực của Công an Thành phố trong lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và giải quyết ùn tắc giao thông. Tôi xin được chia sẻ một số nội dung, góc nhìn thực tiễn, đặc biệt là trong cách tiếp cận vấn đề an ninh phi truyền thống gắn với công tác giải quyết ùn tắc giao thông hiện nay.
Trước hết, để bàn đến bài toán ùn tắc giao thông, không thể không nhắc đến yếu tố kết cấu hạ tầng giao thông. Hiện nay quỹ đất dành cho giao thông tại Hà Nội mới chỉ đạt khoảng 12 - 13%, trong khi theo quy hoạch đối với đô thị đặc biệt, tỉ lệ này phải đạt từ 20 - 26%. Đây là một khoảng cách rất lớn, tạo áp lực trực tiếp lên khả năng tổ chức giao thông đô thị.
Thứ hai, về giao thông tĩnh, tỉ lệ diện tích hiện nay chưa đạt tới 1%, trong khi yêu cầu đặt ra phải đạt từ 3 - 4%. Thiếu hụt nghiêm trọng hạ tầng giao thông tĩnh đã và đang gây ra tình trạng phương tiện chiếm dụng lòng, lề đường, làm gia tăng xung đột giao thông và nguy cơ ùn tắc.
Thứ ba, về quy mô dân số và áp lực di chuyển, theo số liệu quản lý hiện nay, dân số Hà Nội khoảng 8,6 triệu người. Tuy nhiên, trên thực tế, con số này lớn hơn đáng kể. Thông qua hệ thống camera AI của Phòng Cảnh sát giao thông trong việc thống kê, ước lượng lưu lượng người ra vào Thành phố vào các khung giờ cao điểm (khoảng 6h sáng và 6h chiều), có thể thấy số dân vãng lai và dân cư thực tế thường xuyên di chuyển vào Hà Nội chênh lệch thêm khoảng 1,2 triệu người. Điều này cho thấy áp lực giao thông của Thủ đô là hết sức lớn và mang tính thường xuyên.
Về phương tiện giao thông, hiện nay Phòng Cảnh sát giao thông đang quản lý khoảng gần 8,2 triệu phương tiện có hồ sơ đăng ký. Con số này chưa bao gồm lượng phương tiện từ các địa phương lân cận thường xuyên lưu thông trên địa bàn Thành phố, hiện vẫn đang tiếp tục được thống kê, đánh giá.
Đáng chú ý, số lượng phương tiện cá nhân tăng trung bình 4–5% mỗi năm, riêng ô tô tăng khoảng 10% mỗi năm. Mặc dù ô tô chỉ chiếm hơn 8% tổng số phương tiện, song trong thực tế khai thác mặt đường, ô tô lại chiếm dụng phần lớn không gian giao thông. Có những tuyến đường rộng 4–5 làn, nhưng ô tô đã chiếm tới 3–3,5 làn đường, trong khi xe máy dù chiếm tới 69 - 70% số phương tiện lại sử dụng phần không gian còn lại. Trong bối cảnh đó, tỉ lệ vận tải hành khách công cộng hiện nay mới chỉ đạt khoảng 20–25%, chưa đủ để đóng vai trò trụ cột trong việc giảm tải phương tiện cá nhân. Từ thực tiễn trên, có thể khẳng định rằng vấn đề ùn tắc giao thông tại Hà Nội là bài toán tổng hợp, đòi hỏi cách tiếp cận toàn diện và lâu dài.
Đối với lĩnh vực giải quyết ùn tắc giao thông, Công an Thành phố nói chung và Phòng Cảnh sát giao thông nói riêng xác định còn tồn tại một số điểm nghẽn chủ yếu như sau:
Thứ nhất, điểm nghẽn về cơ sở pháp lý trong quản lý và tổ chức giao thông đô thị. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu, trao đổi riêng trong các tọa đàm chuyên đề nhằm hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với thực tiễn đô thị đặc biệt như Hà Nội.
Thứ hai, điểm nghẽn về kết cấu hạ tầng giao thông, một lĩnh vực rất rộng, đòi hỏi nguồn lực lớn và lộ trình triển khai dài hạn.
Thứ ba, điểm nghẽn trong tổ chức và quy hoạch giao thông, bao gồm sự chưa đồng bộ giữa quy hoạch không gian đô thị và quy hoạch giao thông vận tải.
Thứ tư, điểm nghẽn về vận tải hành khách công cộng và quản lý nhu cầu giao thông. Muốn giảm ùn tắc, bắt buộc phải giảm phương tiện cá nhân và tăng cường vận tải công cộng, đây là nguyên lý phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các đô thị lớn trên thế giới.
Thứ năm, điểm nghẽn về ý thức chấp hành pháp luật và văn hóa giao thông, lĩnh vực mà Công an Thành phố, trực tiếp là Phòng Cảnh sát giao thông, đang giữ vai trò chủ trì.
Thứ sáu, điểm nghẽn về cơ chế phối hợp liên ngành, hiện chưa có một đầu mối thống nhất, đủ thẩm quyền và trách nhiệm trong quản lý giao thông đô thị. Vấn đề này đang từng bước được rà soát, hoàn thiện.
Trên cơ sở đó, trước mắt, Công an Thành phố đã xác định 7 nhóm giải pháp trọng tâm, gồm:
(1) Đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền pháp luật về trật tự, an toàn giao thông;
(2) Khắc phục tình trạng lưu lượng giao thông vượt quá năng lực kết cấu hạ tầng, trong đó nhiều tuyến đường có lưu lượng cao gấp 2–3 lần thiết kế, cá biệt như Vành đai 3 trên cao có thời điểm vượt từ 8 đến 20 lần;
(3) Quản lý chặt chẽ hoạt động thi công các công trình giao thông đang khai thác;
(4) Tổ chức lại giao thông, giảm xung đột tại các nút giao phức tạp, trọng điểm;
(5) Xử lý nhanh các sự cố giao thông, đặc biệt trong điều kiện thời tiết bất lợi, mưa bão, ngập úng;
(6) Xử lý nghiêm, triệt để các hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ùn tắc;
(7) Huy động đồng bộ các lực lượng, tăng cường phối hợp và giám sát thực hiện.
Về lâu dài, Công an Thành phố đã tham mưu cho Thành ủy 8 nhóm giải pháp chiến lược, bao gồm:
(1) Hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về quản lý giao thông đô thị;
(2) Triển khai đồng bộ quy hoạch giao thông vận tải Thủ đô với các quy hoạch liên quan theo Quyết định số 519 và Kế hoạch 330;
(3) Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông gắn với mục tiêu giảm ùn tắc;
(4) Đầu tư vận tải hành khách công cộng làm trụ cột hệ thống giao thông đô thị;
(5) Hoàn thiện và quản lý nhu cầu giao thông;
(6) Ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển giao thông thông minh (ITS);
(7) Tổ chức lại không gian đô thị, phân bố hợp lý nhu cầu đi lại;
(8) Đổi mới công tác tuyên truyền, xây dựng văn hóa giao thông.
Những nội dung nêu trên cũng đã được Công an Thành phố tổng hợp, tham mưu cho Ủy ban nhân dân Thành phố để đưa vào chương trình hành động, đồng thời phục vụ công tác chuẩn bị cho các nhiệm vụ chính trị lớn, trong đó có Đại hội Đảng và bầu cử Quốc hội trong thời gian tới.
Ông Nguyễn Mạnh Hà, Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính trật tự xã hội – CATP. Hà Nội: Trong Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Thành phố nêu 3 vấn đề trọng tâm về vệ sinh môi trường, ùn tắc giao thông, trong đó trật tự đô thị cũng là nội dung cần được giải quyết bởi trật tự an ninh đô thị ảnh hưởng rất nhiều đến vấn đề an ninh phi truyền thống.
Về thực trạng, trật tự đô thị cũng giống như giao thông, chúng ta có thể nhìn bằng mắt thường thấy thực tế. Đơn cử, tại phố Hàng Mã, có nhiều vấn đề về dân sinh, nếu không cho người dân bán hàng do lấn chiếm lòng đường vỉa hè, ảnh hưởng đến cảnh quan đô thị thì họ không có tiền sinh hoạt gia đình. Cho nên, giải pháp trước mắt là tuyên truyền. Về lâu dài, chúng tôi đang nghiên cứu có giải pháp và lộ trình cụ thể giải quyết các điểm nghẽn để góp phần cho an ninh đô thị được xanh, sạch, đẹp hơn.

GS.TS. Trung tướng Nguyễn Xuân Yêm, Viện trưởng Viện An ninh Phi truyền thống, phát biểu kết luận - Ảnh: VGP