Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
![]() |
Ảnh Chinhphu.vn |
Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên ở Việt Nam sẽ chạm ngưỡng 10% tổng dân số vào năm 2017, tức là dân số Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn “già hóa” từ năm 2017.
Đây là một thách thức khá lớn vì dân số già sẽ đi đôi với việc chi tiêu nhiều hơn cho chăm sóc sức khỏe, hưu trí, trợ cấp... Điều này đòi hỏi ngay từ bây giờ cần phải chuẩn bị và xây dựng những chính sách phù hợp với vấn đề dân số già hóa dự báo sẽ diễn ra trong những năm tới.
Các khách mời tham dự giao lưu trực tuyến:
- TS. Dương Quốc Trọng – Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế;
- TS. Đàm Hữu Đắc – Phó Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam;
- TS. Giang Thanh Long – Phó Viện trưởng Viện Chính sách công và Quản lý, Đại học Kinh tế quốc dân.
MC: Với hơn 80 triệu dân, hiện nay Việt Nam mới bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” nhưng theo một số chuyên gia, chúng ta đang phải đối mặt với việc già hoá dân số. Xin ông cho biết rõ hơn về thực trạng này?
![]() |
TS. Dương Quốc Trọng - Ảnh Chinhphu.vn |
TS. Dương Quốc Trọng: Tôi cho rằng câu hỏi này khá thú vị và nhiều người đã hỏi tôi là tại sao trên các phương tiện thông tin đại chúng đang nói là Việt Nam bước vào thời kỳ dân số vàng, vừa nói là đang bước vào giai đoạn già hóa dân số, điều ấy có nghịch lý không. Tôi cho rằng điều này là hoàn toàn bình thường.
Trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là dân số vàng, thế nào là già hóa dân số.
Cơ cấu dân số vàng, nói một cách nôm na, là cứ có 2 người trong độ tuổi lao động thì có 1 người trong độ tuổi phụ thuộc. Tại Việt Nam, độ tuổi lao động là từ 15 đến 59 tuổi, độ tuổi phụ thuộc trẻ là dưới 15 tuổi, độ tuổi phụ thuộc già là từ trên 60 tuổi. Dĩ nhiên, quan niệm thế nào là người cao tuổi giữa nước ta và thế giới cũng khác nhau, như Quỹ Dân số Liên hợp quốc định nghĩa người cao tuổi là những người từ 65 tuổi trở lên, còn ở nước ta theo Luật người cao tuổi là từ 60 tuổi trở lên, tính cả đối với nam và nữ. Mặc dù theo Bộ Luật Lao động, nữ giới 55 tuổi về hưu nhưng tới 60 tuổi họ mới được coi là người cao tuổi.
“Già hóa dân số” hay còn gọi là giai đoạn “dân số đang già”: Khi tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm từ 7% tổng dân số trở lên; hoặc khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm từ 10% tổng dân số trở lên. Giai đoạn “dân số già” còn gọi là giai đoạn “dân số đã già”: Khi dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm từ 14% tổng dân số trở lên. Mà như trên chị nói, giai đoạn chuyển từ gia đoạn “già hóa dân số” sang giai đoạn “dân số già” rất khác nhau ở các nước khác nhau. Ví dụ như là Pháp 115 năm, Thụy Điển 85 năm…
Một khái niệm khác nữa là “dân số siêu già” khi tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm từ 21% dân số trở lên.
Ở Việt Nam, từ năm 2007, số người trong độ tuổi lao động đã gấp đôi số người trong độ tuổi phụ thuộc, như vậy, chúng ta đã chính thức bước vào giai đoạn dân số vàng. Giai đoạn dân số vàng này, theo tính toán của các nhà khoa học thì kéo dài khoảng 30 năm.
Trên thế giới, tùy vào mức sinh, mức chết mà giai đoạn này có thể rút ngắn còn 25 năm hoặc kéo dài tới 50 năm, nhưng ở Việt Nam, các nhà khoa học dự báo kéo dài khoảng 30 năm – 35 năm.
Trong 30 năm qua, qua 4 kỳ tổng điều tra dân số, số lượng và tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam có tăng nhưng tăng chậm. Cụ thể, từ năm 1979 đến 2009, tỷ lệ người cao tuổi tăng trung bình 0,06% mỗi năm. Nhưng từ năm 2009 trở đi, tôi nghĩ sẽ có sự tăng đột biến và tăng nhanh.
Bởi vì, ở thời điểm 1/4/2009, tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên của chúng ta chiếm 8,67% dân số, còn tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm 6,4%.
Nhưng vào thời điểm 1/4/2010, tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên ở nước ta đã chiếm 9,4%. Bạn có thể thấy rằng, chỉ qua 1 năm, tỷ lệ người cao tuổi Việt Nam đã tăng 0,7 điểm phần trăm/năm, trong khi 3 thập kỷ trước đó (1979-2009) chỉ tăng có 0,06 điểm phần trăm/năm. Tức là một năm vừa qua tăng hơn gấp 10 lần so với giai đoạn trước đây.
Còn tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên cũng đã tăng từ 6,4% lên 6,8%.
Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, nước ta sẽ bước vào giai đoạn “già hoá dân số” vào năm 2017. Tuy nhiên, nếu với tốc độ gia tăng tương tự như năm 2010 thì đến 1/4/2011, tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đã là 10,1%, người từ 65 tuổi trở lên đã là 7,2% và như vậy, dù theo tiêu chí nào, chúng ta cũng đã bước vào giai đoạn “già hoá dân số” ngay từ năm 2011 rồi, sớm hơn 6 năm so với dự báo trước đây.
Các nước khác phải trải qua nhiều thập kỷ thì mới bước từ giai đoạn dân số già hóa sang dân số đã già (như Pháp 115 năm; Thụy Điển 85 năm; Hoa Kỳ 70 năm; Nhật Bản 26 năm). Nhưng ở Việt Nam chúng ta thì Tổng cục Thống kê dự báo là khoảng 20 năm. Riêng tôi cho rằng với tốc độ tăng như thế thì đâu đó chỉ khoảng 17, 18 năm chúng ta đã bước vào giai đoạn dân số già.
MC: Với tình trạng già hóa dân số như ông vừa nêu, ông có thể lý giải về việc vì đâu mà Việt Nam lại có tốc độ giá hóa dân số nhanh như vậy?
![]() |
TS. Đàm Hữu Đắc - Ảnh Chinhphu.vn |
Tại Việt Nam, năm 1960 tuổi thọ bình quân chỉ đạt 40 tuổi nhưng tới 2010 lên đến 73 tuổi. Phải khẳng định sự già hóa dân số là thành quả của sự phát triển KT-XH, mà trực tiếp là y tế, chăm sóc sức khỏe người dân, công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình…
MC: Có ý kiến cho rằng, trong khi chúng ta chưa tận dụng được nhiều thuận lợi từ cơ cấu dân số vàng thì lại phải đối mặt với những thách thức của già hóa dân số. Trong khi cả xã hội chưa chuẩn bị nhiều về vật chất, y tế để đón nhận, Vậy ông có thể nói rõ hơn những thách thức mà Việt Nam sẽ phải trải qua khi dân số già hóa?
TS Giang Thanh Long: Nói về già hóa dân số, như TS Trọng đã đề cập, ngoài những thành tựu cũng đặt ra thách thức lớn. Thứ nhất, như phương tiện thông tin đại chúng đã nói, cơ cấu sắp xếp cuộc sống hộ gia đình người cao tuổi thay đổi rất nhiều, trước đây 80% người cao tuổi sống với con cái, nhưng hiện nay do thay đổi về đời sống kinh tế- xã hội, chỉ có 60% người cao tuổi sống với con cái, rõ ràng đây là chỗ dựa rất quan trọng cho người cao tuổi. Với sự biến đổi về sắp xếp cuộc sống gia đình như vậy tạo ra thách thức lớn trong chăm sóc người cao tuổi và làm thế nào để xây dựng chính sách chăm sóc người cao tuổi dựa trên cộng đồng và các nhân tố khác thay vì gia đình.
Thứ 2, theo một số báo cáo gần đây, ở người cao tuổi Việt Nam tỷ lệ khỏe mạnh còn thấp. Họ đang chịu xu hướng bệnh tật kép do tuổi già (liên quan đến lão khoa) và thay đổi cuộc sống mới, làm cho chuyển hướng xu hướng bệnh tật từ bệnh lây nhiễm sang không lây nhiễm và mãn tính, dẫn tới chi phí chăm sóc cao.
Thứ 3, hiện đời sống kinh tế người cao tuổi đã thay đổi, cải thiện nhiều so với 20 năm trước, tuy nhiên so với mặt bằng chung, đời sống người cao tuổi vẫn chưa cao và thực tế, một trong những nguồn thu nhập tạo ra cuộc sống ổn định cho người cao tuổi là hưu trí và trợ cấp thì vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong chi tiêu chung của hộ gia đình. Trong thực tế, chỉ 20% người cao tuổi tiếp cận hệ thống hưu trí. Đây cũng là thách thức lớn, như các phương tiện thông tin đại chúng đã đề cập, Việt Nam có thể già trước khi giàu do tốc độ già hóa cao, trong khi tốc độ thay đổi thu nhập chậm.
Ngoài ra, chính sách của chúng ta đã thay đổi hướng tới phục vụ dân số già tốt hơn, nhưng thực tế, do một vài hạn chế về tài chính, nguồn nhân lực, dường như thay đổi về mặt chính sách vẫn chậm hơn so với yêu cầu thực tế.
MC: Như vậy với thực tại như TS. Long vừa dẫn chứng, để đảm bảo cuộc sống hàng ngày cho các cụ, Nhà nước đã quan tâm dành cho các cụ những khoản trợ cấp nào. Vì với thực tế hiện nay là người cao tuổi ở nước ta sống chủ yếu ở nông thôn, là nông dân và làm nông nghiệp nên đa số không có lương hưu.
TS. Đàm Hữu Đắc: Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách đối với người cao tuổi không có lương hưu. Hiện nay có khoảng 70% người cao tuổi ở nông thôn tham gia sản xuất nông nghiệp nhưng không có lương hưu.
Đảng và nhà nước có nhiều chính sách như trợ cấp cho những người già cả, cô đơn, không nơi nương tựa. Chính sách này có từ trước năm 2000.
Gần đây có thêm chính sách đối với người già không có người chăm sóc, phụng dưỡng cũng được hưởng chế độ trợ cấp theo Luật Người cao tuổi.
Những người đủ 80 tuổi, thuộc hộ gia đình nghèo, không có người chăm sóc cũng được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng của Nhà nước.
Đây là những chính sách cơ bản, ngoài ra, người cao tuổi khi qua đời được hưởng chế độ mai táng phí.
Người thọ 100 tuổi được Chủ tịch nước chúc thọ và tặng quà.
Người thọ 90 tuổi được Chủ tịch UBND tỉnh chúc thọ và tặng quà.
MC: Cũng liên quan đến vấn đề lương hưu, chúng ta đều biết dân số già sẽ đi đôi với việc phải chi nhiều hơn cho chăm sóc sức khỏe, hưu trí, trợ cấp... Gần đây, trên công luận có đề cập đến vấn đề quỹ lương hưu đang phải chịu áp lực chi trả lớn bởi hệ lụy dân số già. Xin ông cho biết cụ thể về vấn đề này?
![]() |
TS. Giang Thanh Long - Ảnh Chinhphu.vn |
MC: Tôi nghe nói có có khái niệm “già hoá chủ động”. Đây có phải là việc người già chủ động tham gia lao động, sản xuất để cải thiện cuộc sống của mình không? Ông nghĩ sao khi hiện nay có những ý kiến cho rằng việc về hưu lúc 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi đối với nam là lãng phí nguồn nhân lực?
TS Dương Quốc Trọng: Trước hết, tôi xin khẳng định, chúng ta chưa bước vào giai đoạn dân số già. Chúng ta đang bước vào giai đoạn già hóa dân số hay giai đoạn dân số đang già. Còn giai đoạn dân số già thì cần vài chục năm nữa.
Về việc nghỉ hưu, đã được đề cập nhiều trên các phương tiện thông tin, đặc biệt là tuổi nghỉ hưu nữ.
Trước hết, để trả lời câu hỏi về già hóa chủ động, nói cách khác là chúng ta chủ động bước vào giai đoạn già hóa dân số, chúng ta thấy trước mọi vấn đề để bước vào, biết thời cơ, thách thức, khó khăn để tận dụng và vượt qua.
Như trên, phải khẳng định, đây là thành tựu lớn. Nhưng chúng ta bước vào giai đoạn này quá sớm so với dự báo, xuất hiện nhiều thách thức như đã nêu. Vậy, chúng ta phải chủ động đối phó bằng những giải pháp khác nhau.
Chủ động bằng cách thiết lập hệ thống dịch vụ an sinh xã hội và chăm sóc người già rộng khắp từ thành thị tới nông thôn. Người dân đóng bảo hiểm xã hội khi đang làm việc và được hưởng lương hưu đủ sống khi về già. Những trường hợp không có con cái hoặc con cái không có điều kiện chăm sóc, hệ thống dịch vụ xã hội sẽ lãnh trách nhiệm chăm sóc khi họ về già. “Già hoá chủ động” bao gồm các yêu cầu: dịch vụ y tế xã hội, kinh tế, xã hội, văn hoá, môi trường vật chất. Chuẩn bị đầy đủ các yêu cầu này, khi tỷ lệ người cao tuổi tăng cao, chúng ta sẽ đủ sức cung cấp dịch vụ phù hợp với yêu cầu, tránh “cú sốc” với người cao tuổi.
Nếu bạn đang là người trẻ thì hãy “chủ động” chuẩn bị cho giai đoạn “già” của mình bằng cách lao động làm giàu, tích luỹ cho tuổi già còn nếu như đã già rồi thì lúc này không còn gọi là “già hoá chủ động” được nữa nhưng vẫn có thể chủ động phát huy những khả năng, vai trò của mình trong gia đình, xã hội và cho chính bản thân mình.
Về câu hỏi liên quan đến tuổi nghỉ hưu của nữ là 55 tuổi, nam là 60 tuổi có lãng phí nguồn nhân lực hay không? Tôi cho rằng, không lãng phí. Lý do là khi các nhà làm luật đặt ra quy định về độ tuổi nghỉ hưu là họ đã cân nhắc trên cơ sở sức khoẻ trung bình (bao gồm thể chất, tinh thần) của người lao động Việt Nam, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam. Hơn nữa, bản thân người đã nghỉ hưu nếu còn khả năng lao động, cống hiến họ vẫn hoàn toàn có thể lao động, cống hiến cho gia đình và cho xã hội. Thêm nữa, nước ta đang ở giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” tức số lượng và tỷ lệ người trong độ tuổi lao động là rất lớn. Tận dụng được hết “cơ hội vàng”, “lực lượng vàng” này là một điều vô cùng hữu ích cho sự phát triển của quốc gia.
MC: Thực tế cho thấy việc tích lũy về kinh tế để đảm bảo cuộc sống khi về già là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc tích luỹ khi còn đang đi làm cũng đã khó, chứ chưa nói đến việc khi về già, sức khỏe giảm sút. Ông đánh giá như thế nào về ý thức tích lũy trước khi về già để đảm bảo cuộc sống của người cao tuổi hiện nay?
TS. Đàm Hữu Đắc: Tôi rất đồng tình với ý kiến TS Dương Quốc Trọng. Rõ ràng, các nước phát triển đã có kinh nghiệm từ nhiều thập kỷ về vấn đề này. Còn với Việt Nam, đây là vấn đề mới, rất khó khăn mặc dù chúng ta đã học tập, nghiên cứu kinh nghiệm của quốc tế từ nhiều năm nay. Dĩ nhiên, điều này là do đời sống ở nước ta nói chung còn khó khăn. 70% người cao tuổi chưa có tích lũy về vật chất.
Theo tôi, cần có nhiều giải pháp, cần có sự trợ giúp của Nhà nước thì mới giải quyết được, nhưng quan trọng hơn là mọi người phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất để có tích lũy và tham gia bảo hiểm (bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm nhân thọ…). Một vấn đề khác là vận động, thuyết phục con cháu mua bảo hiểm tự nguyện cho cha mẹ, nhất là ở nông thôn. Hình thức này đã được một số nước vận dụng trong thời gian đầu. Thậm chí, tôi biết nhiều dòng họ cũng nghĩ tới chuyện này.
Bên cạnh đó, là các giải pháp khác như tiết kiệm chi tiêu, tham gia các hình thức tiết kiệm. Một mặt khác là Nhà nước, cùng với các đoàn thể, xã hội cũng phải hỗ trợ quỹ chăm sóc, quỹ hỗ trợ người cao tuổi…
Với các giải pháp đó, người cao tuổi có thể chủ động chuẩn bị khi về già trong thập kỷ tới.
TS. Giang Thanh Long: Tôi xin bổ sung một chút về khái niệm “già hóa chủ động”. Hiện có một khái niệm mới là cơ hội nhân khẩu học lần thứ hai, như Nhật Bản những năm 1960 – 1990, họ tăng trưởng rất nhanh, do đó, những người già có tích lũy lớn và nay trở lại đầu tư cho phát triển.
Do đó, nếu bây giờ ta tính chuyện “già hóa chủ động”, lo cho tuổi già khi còn trẻ, thì sẽ tận dụng được nguồn lực mà người già có được.
Quay lại câu chuyện kinh nghiệm quốc tế, một số nước trong khu vực đã xây dựng các dự án, chương trình mà người cao tuổi đóng vai trò quan trọng như Thái Lan, Philippines, Singapore có chính sách giảm bớt thuế hoặc hỗ trợ hộ gia đình chăm sóc người cao tuổi, nhất là đối với người chăm sóc người cao tuổi không phải là cha mẹ của họ thì họ có chính sách đặc biệt như trợ giúp bằng tiền, giảm thuế thu nhập, tạo ra môi trường thuận lợi cho chăm sóc người cao tuổi. Thứ hai, chuẩn bị xây dựng hệ thống y tế như Philippines xây dựng hệ thông chăm sóc lão khoa tương đối tốt, đào tạo các y tá, hộ lý chăm sóc người cao tuổi… Hiện nay Philippines xuất khẩu nhiều lao động có chuyên môn này.
Thứ ba, Thái Lan có chương trình chuẩn bị cho thời gian cao tuổi như thành lập các câu lạc bộ cho những người từ 40 tuổi trở đi. Hiện Việt Nam không phải không có các chính sách này như miễn thuế thu nhập cho người cao tuổi, giảm trừ gia cảnh... Hiện cũng có một dự án khá lớn của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam là xây dựng mô hình CLB liên thế hệ, tại đó, người trẻ và người già cùng tham gia, sinh hoạt. Họ chia sẻ với nhau các vấn đề về gia đình, kinh tế… Ở 4 tỉnh là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đã có hàng trăm CLB như thế này. Việc duy trì hoạt động các CLB này dù chi phí không lớn nhưng cải thiện rất nhiều đời sống cho các cụ. Người cao tuổi rất chủ động tham gia. Tôi cho những mô hình này cần nhân rộng trong thời gian tới.
![]() |
Ảnh Chinhphu.vn |
MC: Chúng tôi đã nhận được ý kiến của một độc giả cao tuổi ở Quảng Ninh là Nguyễn Văn Bình. Cụ Bình tâm sự: Tôi năm nay 73 tuổi, là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã, sống mạnh khỏe, trồng cây cảnh để vừa vui tuổi già vừa làm kinh tế. Tôi thấy nhiều người nghĩ tuổi già là một gánh nặng. Tôi không tán thành quan điểm này.
TS. Đàm Hữu Đắc: Kính thưa bác Bình, rất tiếc hiện nay trong xã hội chúng ta vẫn tồn tại một bộ phận chưa hiểu đúng vai trò, vị trí của người cao tuổi và hội người cao tuổi. Chúng ta phải thấy rằng, nhiều người cao tuổi vẫn có sức khỏe và trí tuệ minh mẫn, họ có công lao trong nuôi dạy con cháu mà còn có công trong các cuộc kháng chiến của dân tộc. Và họ vẫn cống hiến sức lực của mình cho quê hương, như bác Vũ Khiêu, Trần Văn Khuê… là những người vẫn đang truyền thụ kinh nghiệm cho thế hệ trẻ….
Hay trong gia đình chúng ta cũng thấy, người cao tuổi về cơ bản vẫn là trụ cột, đóng góp nhiều cho quê hương, đất nước.
MC: Bên cạnh nguồn thu nhập, vấn đề được nhiều người cao tuổi quan tâm chính là chế độ chăm sóc sức khỏe. Chúng ta đã có những biện pháp gì để nâng cao năng lực chăm sóc người cao tuổi khi mà trong tương lai số lượng người cao tuổi sẽ ngày một nhiều hơn?
TS. Dương Quốc Trọng: Đúng là một trong những vấn đề người cao tuổi quan tâm nhất là chăm sóc sức khỏe. Như đã phân tích, tuổi càng cao, sức khỏe càng thấp. Hiện nay, chúng ta đã dần hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi từ Trung ương đến địa phương như viện lão khoa, khoa lão khoa… có trách nhiệm trực tiếp trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Tuyến huyện, xã cũng có đơn vị chăm sóc người cao tuổi.
Như TS. Long đã phân tích, cơ cấu bệnh tật của nước ta nói chung và người cao tuổi nói riêng đã chuyển dần từ mô hình bệnh tật của những nước đang phát triển sang của nước phát triển. Cơ cấu bệnh tật hiện nay của chúng ta là không nhiễm trùng, không lây nhiễm là chủ yếu như cao huyết áp, đột quỵ, tiểu đường, rối loạn chuyển hóa…
Chúng ta cũng đã dần hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng do người dân tự tổ chức. Tôi cho rằng, về lâu dài, đây là hệ thống rất quan trọng, do phương châm của chúng ta là phòng bệnh là chính. Chúng ta vẫn có thể sống vui, sống khỏe, sống tốt nếu biết cách chung sống với các loại bệnh như trên...
Một khâu quan trọng là tăng cường tuyên truyền, giáo dục sức khỏe để các cụ và gia đình góp phần chăm sóc sức khỏe một cách chủ động, để chủ động bước vào giai đoạn già hóa dân số hay còn gọi là “già hóa chủ động”.
Cụ Trần Văn Mạnh, 74 tuổi sống tại Hải Dương có ý kiến: Như tôi thấy thì hình như chỉ có mỗi bệnh viện Lão khoa ở Hà Nội. Xin hỏi bác Phó Chủ tịch Hội người cao tuổi, ngoài bệnh viện đó ra thì còn có bệnh viện nào dành cho người già không? Khi tôi đi khám bệnh thì có được ưu tiên gì không?
TS. Đàm Hữu Đắc: Tôi xin khẳng định với bác rằng cho đến nay ở Việt Nam chỉ có Bệnh viện Lão khoa duy nhất này. Nhưng hiện 28 tỉnh thành cũng có khoa lão khoa trong các bệnh viện đa khoa tỉnh. Việt Nam cũng có 41 bệnh viện y học cổ truyền rất thích hợp với khám chữa bệnh người cao tuổi…
Song cũng xin thông tin với bác rằng, sắp tới, thực hiện Luật Người cao tuổi, tất cả các bệnh viện đa khoa cấp tỉnh đều phải có khoa lão khoa, còn các bệnh viện đa khoa cấp huyện sẽ dành một số giường, phòng cho người cao tuổi, phát triển các mô hình bệnh viện lão khoa khu vực.
TS. Dương Quốc Trọng: Tôi xin có ý kiến thêm về vấn đề này. Trước đây khi dân số trẻ, tỷ lệ trẻ em rất lớn, chúng ta có Ủy ban Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Cùng với đó, chúng ta có hệ thống các bệnh viện Nhi Trung ương, hầu hết các tỉnh, thành nếu không có bệnh viện nhi độc lập thì cũng có khoa nhi riêng trong các bệnh viện đa khoa, thậm chí tuyến cơ sở cũng có. Ngành y có 4 chuyên khoa chính, nội, ngoại, sản, nhi.
Như đã phân tích, trong thời gian tới, cơ cấu dân số sẽ thay đổi sâu sắc, tỷ lệ người cao tuổi sẽ ngày càng cao lên. Đã có lúc tôi nghĩ rằng, nên chăng chúng ta thành lập một ủy ban riêng, một hệ thống từ Trung ương tới cơ sở để chăm sóc, bảo vệ người cao tuổi. Hiện chúng ta có Ủy ban quốc gia về người cao tuổi nhưng chủ yếu là kiêm nhiệm. Bên cạnh đó, nên thành lập hệ thống bệnh viện lão khoa, tương tự như hệ thống bệnh viện nhi.
MC: Người già ở Việt Nam sống chủ yếu dựa vào con cháu, tuy nhiên xu hướng quy mô gia đình Việt Nam đang chuyển dần từ gia đình truyền thống sang gia đình hạt nhân. Hơn nữa, hiện mỗi gia đình chỉ có từ 1 – 2 con, con cái khi trưởng thành không sống cùng bố mẹ, dẫn đến có nhiều người già sống neo đơn. Trại dưỡng lão là một mô hình hiệu quả để chăm sóc các cụ.
Xin ông Long cho biết hiện ở nước ta đã có những mô hình trại dưỡng lão nào? Số lượng trại dưỡng lão đã đáp ứng đủ nhu cầu của các cụ chưa, thưa ông?
TS Giang Thanh Long: Hiện nay, do nhu cầu của người cao tuổi, chúng ta đã xây dựng 1 hệ thống chăm sóc người cao tuổi. Chúng ta đã có một số nhà dưỡng lão của nhà nước.
Và Chính phủ cũng có một số quy dịnh và khuyến khích cho khu vực tư nhân để tham gia xây dựng nhà dưỡng lão.
Tuy nhiên, theo báo cáo gần đây của Ủy ban quốc gia người cao tuổi, các nhà dưỡng lão này gặp hạn chế về kinh phí nên cơ sở vật chất và kinh phí cho những người tham gia chăm sóc người cao tuổi còn thấp, chưa tạo được động lực để phát triển loại hình này.
Cùng với đó, ở khu vực tư nhân, dù đã có sự khuyến khích của nhà nước nhưng họ vẫn gặp rất nhiều khó khăn.
Hơn nữa, ở Việt Nam, quan niệm xã hội gửi bố mẹ vào nhà dưỡng lão là ở góc độ nào đó bị phê phán, là không quan tâm đến bố mẹ. Tuy nhiên với cuộc sống ở thành thị, nhiều người quan tâm đến bố mẹ nhưng do công việc, không đủ thời gian chăm sóc nên có thể khẳng định nhu cầu đưa người cao tuổi vào nhà dưỡng lão là rất cao. Nhưng do quan niệm xã hội như trên nên việc hình thành hệ thống nhà dưỡng lão gần như là tự phát.
Tôi cho rằng với nguồn lực nhà nước còn hạn chế, thì rõ ràng là công tác xã hội hóa xây dựng nhà dưỡng lão cần được thúc đẩy nhưng vấn đề là thúc đẩy theo hướng nào để phù hợp với quan niệm xã hội hiện nay.
TS Dương Quốc Trọng: Tôi có ý kiến thêm về quan niệm xã hội. Để thay đổi quan niệm xã hội cần có độ trễ và đòi hỏi thời gian. Tôi rất tán thành với TS. Long, nếu đưa các cụ vào nhà dưỡng lão thì có người quan niệm con bất hiếu. Thực ra do cuộc sống, con cái có quá nhiều việc phải làm. Hơn nữa, bây giờ mỗi gia đình chỉ sinh 2 con, thậm chí 1 con nên không có thời gian chăm sóc, phải thuê người chăm sóc cha mẹ thì cũng không có gì là bất hiếu cả.
MC: Cùng vấn đề về mô hình trại dưỡng lão, xin ông Long tư vấn thêm cho độc giả Dương Khánh Vân (Hòa Bình): Tôi đã mở một Trung tâm dưỡng lão tư nhân, hiện chúng tôi đang hoạt động theo phương thức lấy thu bù chi và cũng gặp một số khó khăn về kinh phí. Tôi xin một lời khuyên từ các chuyên gia làm sao để các trung tâm tư nhân như chúng tôi có thể hoạt động hiệu quả nhất, chăm sóc người cao tuổi tốt nhất?
TS. Giang Thanh Long: Thực ra, gần đây, các phương tiện thông tin đề cập nhiều tới một mô hình trại dưỡng lão là trại dưỡng lão Thiên Phúc- xã Minh Khai và Đông Ngạc, Từ Liêm. Trại dưỡng lão thành lập từ cuối năm 1999. Ban đầu, do khó khăn nhất định, số lượng người muốn tham gia rất ít. Tuy nhiên do làm tốt công tác marketing, họ đã tiếp cận được một số người cao tuổi ở nước ngoài về chữa trị tại đây, dần dần tình hình hoạt động trại dưỡng lão đã cải thiện nhiều, doanh thu cũng đủ bù cho chi. Chị có thể liên hệ trực tiếp để trao đổi thêm.
MC: Giải pháp cho người cao tuổi có một cuộc sống đúng ý nghĩa của tuổi già chúng ta đã đề cập nhiều. Nhưng hiện nay, với tốc độ già hóa dân số chóng mặt thế này thì Hội người cao tuổi có những giải pháp như thế nào để phát huy vai trò của người cao tuổi? Vì chúng ta vừa tạo điều kiện cho các cụ thỏa sức làm việc theo đúng khả năng lại vừa không bỏ sót lượng chất xám vô cùng to lớn và quý báu này.
TS. Đàm Hữu Đắc: Luật Người cao tuổi đã nêu rõ trách nhiệm của Nhà nước, xã hội, gia đình trong việc phát huy trí tuệ, kinh nghiệm quý của người cao tuổi thể hiện qua 9 quy định. Với tốc độ già hóa nhanh như hiện nay, đặc biệt trong giai đoạn chuyển từ già hóa sang dân số già, đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa của Đảng, Nhà nước cũng như của các tổ chức xã hội khác trong đó Hội Người cao tuổi giữ trách nhiệm nặng nề. Sắp tới, Đại hội lần thứ IV của Hội Người cao tuổi sẽ thảo luận về vấn đề này. Hội cũng sẽ tích cực tham mưu cho Đảng, Nhà nước, phối hợp với cơ quan chắc năng để hoàn thiện hệ thống chính sách về bảo trợ xã hội, chăm sóc sức khỏe, phát huy vai trò người cao tuổi.
Đặc biệt trước mắt sẽ tuyên truyền mạnh hơn nữa về già hóa dân số để nâng cao nhận thức của xã hội, của nhân dân về vấn đề này để chủ động hơn trong việc chuẩn bị cho tuổi già.
Động viên con cháu tham gia các phong trào để cải thiện một bước đời sống vật chất, tinh thần của người cao tuổi. Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều chính sách đối với người cao tuổi, gần đây nhất là Luật Bảo hiểm xã hội, y tế, khám chữa bệnh mà đặc biệt là Luật Người cao tuổi Việt Nam.
Một số chính sách như chúc thọ và mừng thọ là nguồn động viên rất lớn đối với người cao tuổi.
Tôi cho rằng những chính sách của Nhà nước ta cho dù còn khiêm tốn do kinh tế khó khăn nhưng những chính sách đó đã đi vào cuộc sống và người cao tuổi đã được hưởng một số ưu đãi từ các chính sách đó.
Ngoài ra, các chính sách như miễn giảm giá vé cho người cao tuổi khi tham gia giao thông, tham quan danh lam thắng cảnh…cũng là nguồn động viên rất lớn đối với người cao tuổi…
MC: Thưa TS. Dương Quốc Trọng, già hóa dân số là thành tựu nhưng cũng là thách thức, có ý kiến cho rằng, tất nhiên mới chỉ là góc độ bình luận, rằng liệu có nên nới lỏng mục tiêu dân số - kế hoạch hóa gia đình, tăng tỷ lệ sinh?
TS. Dương Quốc Trọng: Tôi cho rằng đây là 1 câu hỏi rất thú vị và người hỏi câu này rất am hiểu về vấn đề dân số. Hiện nay, trên cả nước, năm 2010, tổng tỷ suất sinh tức là số con trung bình của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 2. Nếu chúng ta cứ duy trì ở mức này thì chúng ta sẽ có 1 cơ cấu dân số rất tốt và chúng tôi đã dựng thử một tháp dân số dự báo vào năm 2060 thì tháp dân số lúc đó sẽ trở thành 1 tháp dân số hình trụ, tức là có thể cân đối giữa các nhóm tuổi với nhau.
Nhưng bây giờ vấn đề đặt ra là tăng tỷ lệ sinh hay chúng ta cứ duy trì ở mức này hoặc giảm xuống thấp hơn thì phải suy nghĩ một cách thấu đáo. Nếu để dân số tăng lên hoặc cứ giữ như thế này thì quy mô dân số quá lớn.
Hiện nay về mặt quy mô dân số nước ta đứng thứ 13 trên thế giới, thứ 3 ở Đông Nam Á. Mật độ dân số là 260 người/km2, gấp 5 lần mật độ dân số thế giới, gấp 2 lần mật độ dân số châu Á. Nếu tính cả mật độ dân số và quy mô dân số thì Việt Nam hiện đứng thứ 5 trên thế giới.
Chủ trương của chúng ta là giảm sinh nhưng giảm sinh ở mức độ vừa phải chứ không gay gắt. Trước đây chúng ta chú trọng đến số lượng nhưng bây giờ chủ yếu quan tâm đến chất lượng. Tuy nhiên, cũng phải cảnh giác với nguy cơ nếu tổng tỷ suất sinh giảm xuống quá thấp thì rất khó để vực lên.
MC: Chăm sóc đời sống người cao tuổi để đảm bảo về mặt vật chất và tinh thần luôn là những định hướng chính sách mà Đảng và Chính phủ thực hiện trong mọi giai đoạn phát triển đất nước.
Già hóa dân số không phải là một gánh nặng mà sẽ là một thành tựu xã hội to lớn khi có những bước chuẩn bị và thực hiện các chiến lược, chính sách thích ứng. Bên cạnh nỗ lực của Chính phủ về mặt chính sách thì điều quan trọng, quyết định nhất chính là việc mỗi cá nhân đều có ý thức “lo cho tuổi già từ khi còn trẻ” bởi lo cho mình cũng chính là lo cho gia đình, cộng đồng và các thế hệ tương lai.
Trân trọng cảm ơn sự quan tâm của bạn đọc.
Trân trọng cảm ơn các vị khách mời.
Cổng TTĐT Chính phủ