Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Vấn đề bà Liên hỏi, Luật sư Lê Văn Đài, Trưởng Văn phòng Luật sư Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội trả lời như sau:
Phải giao kết hợp đồng bằng văn bản
Các tổ chức, cá nhân khi sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động được quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 9/5/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động, trong đó có các doanh nghiệp theo quy định tại Điểm a, Khoản 1 Điều 2 là doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Hình thức, nội dung giao kết hợp đồng lao động quy định tại Điều 28 và Điều 29 Bộ luật Lao động, được hướng dẫn tại Điều 3 Nghị định 44/2003/NĐ-CP như sau:
Hợp đồng lao động được ký kết bằng văn bản, theo mẫu quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và phải được làm thành hai bản, mỗi bên giữ một bản.
Đối với một số công việc có tính chất tạm thời mà thời hạn dưới ba tháng hoặc đối với lao động giúp việc gia đình thì các bên có thể giao kết bằng miệng. Trong trường hợp giao kết bằng miệng, nếu cần có người chứng kiến thì hai bên thoả thuận.
Hợp đồng lao động ký kết bằng văn bản hoặc giao kết bằng miệng phải có những nội dung chủ yếu sau đây: Công việc phải làm, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người lao động.
Trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động quy định quyền lợi của người lao động thấp hơn mức được quy định trong pháp luật lao động, thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động đang áp dụng trong doanh nghiệp hoặc hạn chế các quyền khác của người lao động thì một phần hoặc toàn bộ nội dung đó phải được sửa đổi, bổ sung.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 30 Bộ luật Lao động thì hợp đồng lao động được giao kết trực tiếp giữa người lao động với người sử dụng lao động.
Không được trả lương chậm quá 1 tháng
Hình thức trả lương, phương thức thanh toán được quy định tại Điều 58 và Điều 59 Bộ luật Lao động. Theo đó, người sử dụng lao động có quyền chọn các hình thức trả lương theo thời gian (giờ, ngày, tuần, tháng), theo sản phẩm, theo khoán nhưng phải duy trì hình thức trả lương đã chọn trong một thời gian nhất định và phải thông báo cho người lao động biết.
Người lao động hưởng lương giờ, ngày, tuần được trả lương sau giờ, ngày, tuần làm việc ấy hoặc được trả gộp do hai bên thỏa thuận, nhưng ít nhất 15 ngày phải được trả gộp một lần.
Người lao động hưởng lương tháng được trả lương cả tháng một lần hoặc nửa tháng một lần.
Người lao động hưởng lương theo sản phẩm, theo khoán, được trả lương theo thỏa thuận của hai bên; nếu công việc phải làm trong nhiều tháng thì hàng tháng được tạm ứng lương theo khối lượng công việc đã làm trong tháng.
Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng thời hạn và tại nơi làm việc. Trong trường hợp đặc biệt phải trả lương chậm, thì không được chậm quá một tháng và người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm do ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm trả lương.
Lương được trả bằng tiền mặt. Việc trả lương một phần bằng séc hoặc ngân phiếu do Nhà nước phát hành, do hai bên thỏa thuận với điều kiện không gây thiệt hại, phiền hà cho người lao động.
Hợp đồng lao động là căn cứ thực hiện quyền và nghĩa vụ của hai bên ký kết
Trường hợp bà Vũ Thị Liên phản ánh có người bạn làm tại một công ty xây dựng, nhưng không được ký kết hợp đồng lao động. Việc doanh nghiệp sử dụng lao động mà không ký kết hợp đồng lao động là vi phạm.
Chính từ việc không có được sự thỏa thuận bằng hợp đồng lao động nên doanh nghiệp sẽ tùy tiện trong việc trả lương; tiền lương có thể không được trả đúng năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc; hình thức, thời gian, địa điểm trả lương không đúng quy định của pháp luật. Mặc dù luật sư không có thông tin về hình thức trả lương của công ty, nhưng nếu người lao động làm việc từ tháng 4/2011 đến tháng 11/2011 mà chưa được thanh toán tiền lương, chỉ được tạm ứng một phần tiền lương là có vi phạm quy định về trả lương.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người lao động cần phản ánh trường hợp của mình với Ban chấp hành công đoàn công ty, hoặc thanh tra lao động địa phương. Ban chấp hành công đoàn có trách nhiệm trao đổi hoặc thanh tra viên lao động địa phương có quyền yêu cầu giám đốc công ty phải ký kết hợp đồng lao động với người lao động bằng văn bản. Bản hợp đồng theo mẫu do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành. Những nội dung chủ yếu của hợp đồng phải được thỏa thuận và ghi rõ như: Công việc phải làm, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Hợp đồng lao động là căn cứ thực hiện quyền và nghĩa vụ của hai bên ký kết.
Luật sư Lê Văn Đài
VPLS Khánh Hưng – Đoàn Luật sư Hà Nội
* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.