Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Đây cũng là lý do khiến hầu hết các cơ quan truyền thông trên thế giới xếp sự kiện này vào danh sách 10 sự kiện nổi bật của thế giới trong 10 năm đầu thế kỷ 21.
![]() |
Năm 2008 đánh dấu sự sụp đổ của một loạt các tổ chức tài chính tại Hoa Kỳ như Lehman Brothers. |
Khởi nguồn tâm bão
Cuộc suy thoái kinh tế thế giới lần này bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất tại Mỹ năm 2007. Trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến 2006 một lượng tiền rất lớn từ nước ngoài đổ vào Mỹ để đầu tư đã tạo điều kiện cho Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) giữ được lãi suất cho vay ở mức cực thấp.
Điều này khiến các điều kiện cho vay trở nên dễ dãi hơn. Lúc này tại Mỹ xuất hiện phổ biến loại cho vay gọi là sub-prime hay còn gọi là "thứ cấp", nghĩa là cho người chưa đủ tiêu chuẩn vay để mua nhà. Người người, nhà nhà đổ đi vay tiền mua nhà theo dạng dưới chuẩn, với điều kiện lãi suất sẽ được điều chỉnh tăng hàng năm.
Khi số người mua nhà gia tăng, giá nhà đã tăng vọt. Nhiều người mua nhà đầu tư nhà đất theo dạng này chờ đợi cơ hội để bán lại với giá cao hơn. Chỉ trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến 2006, giá nhà trung bình ở Mỹ đã tăng thêm 124%. Dư nợ từ mảng này tăng từ 160 tỷ USD năm 2001 lên 540 tỷ USD vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ USD vào năm 2007. Theo ước tính đến cuối quý 3/2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất là tiền đi vay, và một phần ba là nợ khó đòi.
Bong bóng thị trường nhà đất bắt đầu vỡ khi vào giữa năm 2006, FED bắt đầu tăng lãi suất liên tục qua nhiều đợt, từ 1% lên 5,25%. Việc tăng lãi suất khiến nhiều người đi vay tiền mua nhà theo dạng thứ cấp không có khả năng trả tiền nhà khi đáo hạn vì lãi suất cho vay biến động đã bị đội lên quá cao.
Hàng loạt các nhà mua theo dạng thứ cấp không có khả năng thanh toán bị ngân hàng kéo nợ trong khi thị trường nhà đất bị đóng băng. Bong bóng nhà đất vỡ đã dẫn tới các khoản vay không trả nổi của người đầu tư nhà đối với các tổ hợp tài chính và đánh sụt giá cổ phiếu của các tổ hợp này. Đáng ngại hơn nữa là vì các tổ hợp này đã gói các khoản nợ với nhau như cái kén có nhiều lớp, và bán tiếp cho cơ sở khác để lấy tiền tài trợ tiếp.
Bão mạnh dần và lan ra toàn cầu
Năm 2008 đánh dấu sự sụp đổ của một loạt các tổ chức tài chính tại Hoa Kỳ như Lehman Brothers, Washington Mutual. Một số khác thì bị mua lại. Fannie Mae và Freddie Mac, hai nhà cho vay cầm cố khổng lồ của Mỹ bị buộc phải để chính phủ tiếp quản để tránh nguy cơ phá sản. Tập đoàn bảo hiểm khổng lồ AIG phải nhận 85 tỷ USD cứu nguy từ chính phủ. Chỉ số Dow Jones lúc đóng cửa ngày 9/3/2009 là 6.547,05. Như vậy là chỉ trong 6 tuần lễ, chỉ số này sụt tới 20%.
Vì một lượng tiền lớn đổ vào Mỹ để đầu tư lại đến từ nhiều quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là châu Á và các nước có nhiều dầu mỏ, khủng hoảng tài chính tại Mỹ có phản ứng dây chuyền đến một loạt các nước khác. Đáng lẽ, người ta đã phải thấy ra điều ấy từ trước tại châu Âu vì tháng 9/2007, ngân hàng Northern Rock của Anh bị tình trạng rút tiền đột biến và hậu quả là phải chịu quốc hữu hóa. Năm 2008, một loạt các ngân hàng khác của Anh phải hoặc chịu chia nhỏ, hoặc bị mua lại. Ở Iceland cũng xảy ra khủng hoảng ngân hàng ở diện rộng. Ngay quý 1/2008, GDP nước này giảm 1,5%, mức giảm lớn nhất kể từ năm 1983 tới thời điểm này.
![]() |
Các thị trường chứng khoán lớn của thế giới như New York, London, Paris, Frankfurt, Tokyo đều chịu những lúc sụt giá lớn. |
Các thị trường chứng khoán lớn của thế giới như New York, London, Paris, Frankfurt, Tokyo đều chịu những lúc sụt giá lớn. Tại Nhật Bản, chỉ số giá cổ phiếu bình quân Nikkei đã xuống mức thấp nhất lịch sử vào các ngày 8 - 10/10/2008. Nhiều nền kinh tế lớn, bắt đầu từ Nhật Bản và EU tuyên bố rơi vào suy thoái. Mỹ lần đầu tiên sau 8 năm tăng trưởng, năm 2008 cũng chính thức thừa nhận đã lâm vào tình trạng suy thoái từ tháng 12/2007. Điều tương tự cũng xảy ra với Nga, vì vay muợn khá nhiều của các ngân hàng châu Âu nay đang lâm nạn. Đã thế, giá dầu giảm mạnh và nhu cầu xây dựng suy sụp cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến hai mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Nga là dầu mỏ và kim loại.
Khủng hoảng tài chính, dẫn đến suy thoái kinh tế. Tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp tăng, hiện vẫn đang ở mức 10% tức là khoảng 15,4 triệu người không có việc làm. Khi người Mỹ không có việc, có nghĩa là tiêu dùng ở Mỹ sụt giảm. Điều này gây ảnh hưởng đến các nước đang phát triển vốn có nền kinh tế lệ thuộc xuất khẩu rất lớn vào thị trường Mỹ do mất các hợp đồng xuất khẩu lớn. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), suy thoái kinh tế có thể đẩy 200 triệu người mất việc làm ở các quốc gia đang phát triển vào cảnh đói nghèo.
Hợp sức chống bão
Để cứu hàng loạt các ngân hàng và công ty tài chính đang trên đà sụp đổ, chính phủ các nước Mỹ, châu Âu, châu Á đã phải vào cuộc bằng cách cắt giảm lãi suất để khơi thông dòng vốn và bơm tiền vào hệ thống tài chính. Riêng tại Mỹ chỉ trong năm 2008 đã cắt giảm lãi suất đến 8 lần, từ lãi suất cơ bản 5% xuống còn từ 0,0% đến 0,25%, thực tế là bằng số không và có khi là số âm nếu tính thêm tỷ lệ lạm phát. Đến tháng 2/2008, Quốc hội Mỹ thông qua một số biện pháp thúc đẩy nền kinh tế bằng cách trả lại bớt tiền thuế cho dân chúng, trị giá 158 tỷ USD mà không công hiệu.
Tháng 10/2008, Quốc hội Mỹ chấp thuận một ngân khoản 700 tỷ USD để mua lại nợ xấu của các ngân hàng. Bộ trưởng Tài chính Mỹ lúc đó, ông Henry Paulson thừa nhận “chúng ta tiếp tục hành động trong hoàn cảnh một cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng. Trong khi con đường phía trước là đầy dẫy khó khăn”. Vào ngày 13 - 14/10/2008, các quốc gia châu Âu đã công bố gói giải pháp hỗ trợ kinh tế khổng lồ trị giá lên tới 2.300 tỷ USD.
Tổng giá trị các gói kích thích lên đến nhiều nghìn tỷ USD. Điều đó cho thấy tầm mức nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng hàng thế kỷ có một này.
Bằng sự can thiệp của các chính phủ, cuộc khủng hoảng dây chuyền của hệ thống tài chính – tiền tệ thế giới đã bị chặn đứng và đà suy thoái kinh tế cũng bị khuất phục từ giữa năm 2009. Chủ tịch Ngân hàng trung ương châu Âu, Jean Claude Trichet hồi tháng 4/2009 nói rằng đã có những dấu hiệu cho thấy tốc độ suy thoái kinh tế toàn cầu đang chững lại và kinh tế thế giới có thể hồi phục trong năm 2010.
Trong báo cáo về “Triển vọng kinh tế thế giới” công bố ngày 1/10/2009, Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) đã nâng mức dự đoán tốc độ tăng trưởng của hầu hết các nền kinh tế. Theo báo cáo này thì tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ giảm 1,1% trong năm 2009 và tăng 3,1% trong năm 2010. Tuy nhiên Tổng Giám đốc IMF, Dominique Strauss Kahn cho biết rằng khó có thể nói khủng hoảng đã kết thúc khi mà tỷ lệ thất nghiệp chưa giảm. Hiện vẫn còn nhiều nguy cơ, kể cả khả năng các nước ngừng chương trình kích thích kinh tế quá sớm hay những yếu kém trong lĩnh vực tài chính vẫn tiếp diễn.
Trong giả thuyết lạc quan là kinh tế đã đụng đáy và phục hồi, người ta vẫn e rằng thất nghiệp sẽ thuyên giảm khá chậm và đó là viễn cảnh chờ đợi thế giới trong năm tới./.
Nguyễn Chiến