Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
![]() |
Bà Trần Thị Hồng Minh cho rằng việc doanh nghiệp thay đổi, tìm hướng đi mới trong kinh doanh là điều dễ hiểu và thường gặp. |
Tuy nhiên, các doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn thường chỉ hoạt động theo thời vụ, có khả năng sẽ quay trở lại thị trường. Chẳng hạn trong quý 1/2016, gần 9.400 doanh nghiệp từng tạm ngừng kinh doanh trước đó đã quay trở lại hoạt động. Như vậy, trong ba tháng đầu năm, số lượng doanh nghiệp thật sự rút lui khỏi thị trường là gần 15.000 doanh nghiệp, chỉ tăng 13% so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh đó, tiếp theo đà tăng trưởng mạnh của năm 2015 với kỷ lục gần 95 nghìn doanh nghiệp mới thành lập, năm 2016 được hứa hẹn là một năm tăng khá về số lượng doanh nghiệp đăng ký mới.
Cụ thể, trong 3 tháng đầu năm có 23.767 doanh nghiệp đăng ký thành lập với số vốn đăng ký là 186.013 tỷ đồng, tăng 24,8% về số doanh nghiệp và tăng 67,2% về số vốn so với cùng kỳ. Trong khi cùng kỳ năm 2015, số doanh nghiệp chỉ tăng 3,8% và số vốn tăng 13,5%.
“Yếu tố cơ bản tạo nên sự tăng trưởng trong thành lập doanh nghiệp chính là tâm lý nhà đầu tư và cách đánh giá của họ đối với tiềm năng của thị trường. Đằng sau những đánh giá tích cực của nhà đầu tư chính là sự nỗ lực và quyết tâm của Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, công bằng và minh bạch hơn”, bà Minh nói.
Không bất thường
Về số doanh nghiệp ngừng hoạt động, bà Trần Thị Hồng Minh cho rằng có cách nhìn nhận, đánh giá khách quan, phù hợp với thực tiễn chung.
Thứ nhất là về mặt số liệu, sau năm 2011, với những nỗ lực phối hợp của cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế, những số liệu ban đầu về doanh nghiệp ngừng hoạt động đã được công bố. Trong những năm qua, số liệu này đang được tổng hợp ngày càng đầy đủ, chính xác hơn và doanh nghiệp cũng có ý thức hơn trong việc cập nhật tình hình hoạt động, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Thứ hai là về mặt thực tiễn, phân tích kỹ số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động, số lượng doanh nghiệp tạm ngừng phần lớn có quy mô vốn đăng ký nhỏ, dưới 10 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ từ 91-94%. Mặt khác, con số này bao gồm các doanh nghiệp tạm dừng có thời hạn (thường là 01 năm), chiếm trên 20%. Đây là các doanh nghiệp chủ động dừng kinh doanh để tìm phương án, hình thức kinh doanh mới trong một thời hạn nhất định, chưa rút lui khỏi thị trường.
Đặc biệt, khi thị trường có những cải thiện về chính sách, niềm tin đầu tư, nhu cầu tiêu dùng mở rộng, thì việc doanh nghiệp thay đổi, tìm hướng đi mới trong kinh doanh là điều dễ hiểu và thường gặp. Nhiều doanh nghiệp chủ động dừng các hoạt động kinh doanh truyền thống để đổi sang các hoạt động kinh doanh có tính đa dạng, tiếp cận được với thị trường rộng lớn hơn là điều cần thiết.
Bà Minh cũng đưa ra các ví dụ trong thực tiễn quốc tế cho thấy việc doanh nghiệp gia nhập và rút lui khỏi thị trường là một đặc trưng khách quan về tính cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Cụ thể, ở Vương quốc Anh, trong 1 năm từ tháng 3/2013-3/2014, có 533 nghìn doanh nghiệp thành lập mới nhưng đồng thời cũng có 332 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, chiếm tỷ lệ 62,2%; tỷ lệ doanh nghiệp còn tồn tại sau 03 năm hoạt động là 70%. Tại New Zealand, tỷ lệ doanh nghiệp tồn tại sau 03 năm hoạt động là dưới 50%; ở 26 nước trong khu vực EU, tỷ lệ doanh nghiệp tồn tại sau 05 năm là 46%.
“Đây là dẫn chứng cụ thể để thấy tình hình doanh nghiệp gia nhập, rút lui khỏi thị trường ở nước ta là không có gì bất thường. Việc doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường chiếm một tỷ lệ cao so với doanh nghiệp đăng ký thành lập là thực tiễn hàng năm, không phải là một chỉ số để đưa ra những kết luận về thị trường rủi ro hay bất ổn”, bà Minh nhận định và cho rằng cần thêm những khảo sát sâu hơn để có những đánh giá đúng và đầy đủ hơn đối với vấn đề này.
Thanh Hằng