Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình |
Thứ hai, lần đầu tiên Quốc hội có Nghị quyết 37 giao chỉ tiêu cho các ngành công an, kiểm sát, toà án và thi hành án nhiều chỉ tiêu rất cao như xử lý tin báo tội phạm phải đạt trên 90%. Tôi được biết ngành công an nếu tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể phá án được trên 90% còn các tội phạm thông thường chỉ phá án được 50-60%. Nhưng chỉ tiêu Quốc hội giao cho 90% và tất cả các chỉ tiêu của các ngành trong khối nội chính phải hoàn thành đều có liên quan đến trách nhiệm của ngành kiểm sát như điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Vậy xin hỏi Viện trưởng có giải pháp gì mang tính đột phá để phối hợp chặt chẽ với các ngành trong khối nội chính giải quyết đạt và vượt các chỉ tiêu Quốc hội giao trong năm 2013? Câu hỏi này cũng gửi đến các đồng chí bên công an, tòa án và thi hành án.
Đại biểu Đỗ Thị Hoàng (đoàn Quảng Ninh): Tôi xin gửi đến Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao 3 câu hỏi. Thứ nhất, trong thời gian qua, nhiều ý kiến trong quần chúng nhân dân và dư luận cho rằng, việc phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật về kinh tế, chức vụ và tham nhũng chưa tốt. Kể từ khâu điều tra, kiểm sát, xét xử. Tỷ lệ các bị cáo được tòa án tuyên cho hưởng án treo nhiều, dẫn đến sự hoài nghi của quần chúng nhân dân và dư luận xã hội về tính nghiêm minh của pháp luật. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử, đề nghị đồng chí Viện trưởng cho biết đã chỉ đạo ngành kiểm sát có biện pháp gì để xử lý nghiêm minh các vụ án kinh tế, chức vụ và tham nhũng trong thời gian tới để thực hiện Nghị quyết số 37 ngày 23/11/2012 của Quốc hội đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay.
Thứ hai, Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra chủ trương nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại các phiên tòa. Thời gian qua, thực hiện tranh tụng của các kiểm sát viên tại tòa đã có nhiều chuyển biến, song chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đề nghị đồng chí Viện trưởng cho biết nguyên nhân, tồn tại, hạn chế và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm việc tranh tụng dân chủ, công khai theo yêu cầu của cải cách tư pháp và đòi hỏi ngày càng cao cùng yếu tố minh bạch, khách quan cùng với thực tế chất lượng của đội ngũ kiểm sát viên, đội ngũ luật sư ngày càng cao.
Thứ ba, hiện nay, trong hoạt động xét xử các bản án có kháng nghị phải Giám đốc thẩm, có sự khác biệt khá lớn về quyết định. Cụ thể là tỷ lệ án phúc thẩm bị cải sửa, hủy qua Giám đốc thẩm còn cao. Cá biệt có vụ án tại Quảng Ninh, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã kháng nghị hủy cả án sơ thẩm, phúc thẩm, nhưng việc xét xử vẫn không đúng đường lối theo kháng nghị của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và Giám đốc thẩm của Tòa án Tối cao. Đại biểu Quốc hội Quảng Ninh đã chuyển đơn tới đồng chí tại kỳ họp. Đề nghị đồng chí Viện trưởng cho biết nguyên nhân, biện pháp khắc phục tình trạng trên thông qua công tác kiểm sát hoạt động xét xử tại các cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm.
Đại biểu Trương Thái Hiền (đoàn Kiên Giang): Tôi xin hỏi Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao 2 câu hỏi như sau. Một, hiện nay trong kinh doanh mua, bán giao, dịch, vay, hỏi diễn ra rất phức tạp, cơ bản bà con ta làm ăn giữ chữ "tín", song có bộ phận lợi dụng sơ hở của pháp luật, họ không thực hiện đúng những cam kết, lời hứa để chiếm dụng tiền hàng tỷ tài sản của nhân dân. Nhưng pháp luật quy định chỉ giải quyết bằng những hình thức dân sự không đủ răn đe, giáo dục, gây bức xúc trong đời sống xã hội, một phần do ta chưa hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có Điều 140 Bộ Luật hình sự quy định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ở tội này quy định là về mặt khách quan tội vi phạm bắt buộc có 2 yếu tố cấu thành cơ bản là hành vi gian dối, chiếm đoạt tài sản nhằm mục đích trái pháp luật và bỏ trốn, hoặc trốn tránh pháp luật. Quy định này không đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra vì họ chiếm, họ không trốn và họ không sử dụng đồng tiền trái mục đích. Như vậy, vấn đề này liên quan đến nhiều cơ quan của tư pháp, nhưng với cương vị là giám sát pháp luật, đồng chí Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao có suy nghĩ gì và có đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung điều luật này không?
Thứ hai, tại Điều 21 sửa đổi một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011, Viện Kiểm sát Nhân dân tham gia xem xét ở các loại án dân sự, hôn nhân gia đình và hành chính, từ khi luật có hiệu lực Viện Kiểm sát đã cố gắng tích cực thực hiện có hiệu quả, thực hiện chức năng giám sát của mình chặt chẽ hơn. Song hiện nay ở một số tỉnh phía Nam, nhất là ở cấp huyện Viện Kiểm sát không đảm bảo đáp ứng được yêu cầu, nên nghiên cứu án còn bị đọng, chưa đảm bảo thời gian quy định pháp luật là 15 ngày theo quy định. Từ thực trạng này dẫn đến án chậm đưa ra xét xử kéo dài. Đây là một trong những nguyên nhân án chậm đưa ra xét xử để án có hạn luật định. Vậy đồng chí Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao có giải pháp gì để cùng Tòa án sớm khắc phục tình trạng này?
Đại biểu Trương Thị Huệ (đoàn Thái Nguyên): Tôi xin gửi đến đồng chí Viện trưởng 2 câu hỏi. Câu thứ nhất, về số liệu thống kê đánh giá tình hình tội phạm, theo quy định của luật thì Viện Kiểm sát Nhân dân có chức năng thống kê tội phạm, số liệu thống kê tội phạm sẽ là căn cứ quan trọng để chúng ta đề ra giải pháp phòng chống. Riêng về số liệu thống kê tại kỳ họp này đại biểu Nguyễn Văn Hiện cũng đã đề cập.
Về lĩnh vực tư pháp tôi đề nghị đồng chí Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cho biết hiện nay con số thống kê tội phạm hằng năm của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao báo cáo Quốc hội có phản ánh đúng tình hình tội phạm đang diễn ra trên thực tế hay không? Tôi lấy ví dụ tình hình tham nhũng đang được đánh giá nghiêm trọng nhưng những con số về các vụ án tham nhũng hằng năm rất ít. Tình hình tiêu cực chạy án trong các cơ quan tư pháp dư luận cử tri đánh giá khá nghiêm trọng nhưng trong báo cáo hằng năm của các cơ quan tư pháp cũng chỉ nêu số liệu về cán bộ bị kỉ luật còn truy cứu trách nhiệm hình sự thì không đáng kể. Vậy Viện trưởng nhận định thế nào về tình hình trên và có giải pháp hữu hiệu nào để khắc phục?
Thứ hai, cơ quan được giao chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong cả tố tụng hình sự và dân sự. Thực tế có rất nhiều vụ án dân sự, hình sự bị hủy. Tôi lấy ví dụ theo báo cáo tổng kết năm 2012 của ngành Tòa án khi phân tích hơn 14.000 vụ xét xử theo thủ tục phúc thẩm và 155 vụ xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm thì thấy án hình sự bị hủy là 0,5%, trong đó nguyên nhân chủ quan là 60%, án dân sự bị hủy là 1,3%, trong đó nguyên nhân chủ quan là 92%. Trong đó có rất nhiều vụ bị hủy do vi phạm về tố tụng, nghĩa là ở các cơ sở, cấp sơ phẩm ngành kiểm sát không phát hiện được những vi phạm về mặt tố tụng. Xin Viện trưởng cho biết trách nhiệm của ngành trong các vụ việc trên và giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
Đại biểu Lê Đình Khanh (đoàn Hải Dương): Tôi có 2 câu hỏi xin gửi đến Viện trưởng. Câu thứ nhất, những năm gần đây tình hình tội phạm vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp. Nhiều vụ án đưa ra truy tố, xét xử nhưng xử đi, xử lại nhiều năm vẫn chưa dứt điểm được. Với chức năng là cơ quan bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền công dân, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, Viện trưởng đánh giá như thế nào về thực trạng đó và trách nhiệm của ngành kiểm sát trong thời gian vừa qua? Viện trưởng có giải pháp gì để góp phần giữ nguyên kỉ cương phép nước trong những năm tới?
Câu hỏi thứ hai, khi thảo luận dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, chúng tôi rất băn khoăn về Khoản 2, Điều 114 quy định khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân. Xin hỏi Viện trưởng điều này có vi phạm nguyên tắc thượng tôn pháp luật hay không và nếu kiểm sát viên chấp hành chỉ đạo của Viện trưởng trong thực hiện nhiệm vụ trái với ý muốn chủ quan của họ và trái pháp luật thì xử lý như thế nào? Điều này tôi thấy cũng khác với Điều 108 quy định đối với tòa án nhân dân. Khi xét xử thì thẩm phán, hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nghiêm cấm các cá nhân can thiệp vào việc xét xử của hội thẩm và thẩm phán. Như vậy, rõ ràng cùng là cơ quan bảo vệ pháp luật nhưng tòa án thì được độc lập xét xử tuân theo pháp luật, thượng tôn pháp luật còn Viện Kiểm sát thì phải theo sự chỉ đạo của Viện trưởng, điều đó có gì mâu thuẫn với nguyên tắc hay không?
Viện trưởng Nguyễn Hòa Bình: Tôi xin trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Bá Thuyền, đoàn Lâm Đồng, về những giải pháp phát triển nguồn nhân lực.
Trước áp lực công việc ngày càng tăng do tình hình vi phạm và tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, theo thống kê về hình sự số lượng án tăng trung bình là 10%, các vụ việc dân sự thì tăng trung bình hằng năm 15% còn hành chính theo quy định của luật mới cho nên công việc của Viện Kiểm sát năm ngoái tăng 200% và 6 tháng đầu năm tăng 180%. Đòi hỏi của cải cách tư pháp là phải nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp, thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp cho nên ngành kiểm sát đặc biệt quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực để có thể đáp ứng được yêu cầu tình hình. Do vậy, về mặt biên chế chúng tôi đã báo cáo với Ủy ban Thường vụ Quốc hội và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội mặc dù trong điều kiện rất khó khăn nhưng cũng đã cho phép ngành chúng tôi tăng biên chế bước đầu và tăng có địa chỉ. Tức là tăng ở cấp huyện là nơi giải quyết 91% số lượng án toàn quốc và tăng ở những khâu quan trọng, ví dụ như ứng dụng công nghệ thông tin và cơ quan điều tra.
Muốn làm được như vậy chúng tôi tập trung thực hiện nghị quyết của Quốc hội để tuyển và yêu cầu là phải tuyển có chất lượng cho nên chúng tôi cũng đã hoàn tất việc phân bổ đến các địa phương về việc tuyển dụng biên chế theo đúng quy định mới, tiêu chuẩn mới và quá trình rất công khai, minh bạch, đảm bảo đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên truyền hình địa phương và trên hệ thống Internet trang thông tin điện tử của ngành. Thậm chí đối với những địa phương khó khăn như Tây Nguyên, Tây Nam Bộ... chúng tôi yêu cầu lãnh đạo huyện liên hệ với các cơ sở đào tạo pháp luật tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ để tập hợp những em đang tốt nghiệp có quê hoặc có nguyện vọng sinh sống để về công tác.
Về mặt đào tạo chúng tôi tăng cường đào tạo, một mặt là đào tạo trong nước thì nâng cao chất lượng đào tạo, thay đổi hệ thống giáo trình, nâng cao chất lượng giáo viên của các cơ sở đào tạo trong ngành. Chúng tôi cũng nhận thấy là cần phải khắc phục tồn tại nhiều năm của ngành là thiếu hụt về cán bộ, đặc biệt là trong vùng sâu, vùng xa. Cho nên chúng tôi đã đề xuất và được Chính phủ đồng ý cho phép thành lập Trường Đại học Kiểm sát trong kỳ họp Quốc hội chúng tôi đã ra mắt Trường Đại học này. Đây là một niềm vui chung của toàn ngành và được xem là giải pháp căn cơ để đáp ứng các yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Chúng tôi cũng phối hợp rất chặt với các cơ sở đào tạo ngoài nước thông qua sự hỗ trợ của Bộ Giáo dục, của Chương trình 165 để đào tạo ở Nga, đào tạo ở New Zealand, có ký kết với các cơ sở đào tạo cử nhân luật chất lượng cao. Đặc biệt tăng cường các giải pháp đào tạo tại chỗ, đào tạo thông qua thực tế, thông qua các vụ án cụ thể, kể cả hình sự, dân sự và hành chính để anh em rút kinh nghiệm. Một trong những tiêu chí để đánh giá hoàn thành nhiệm vụ của ngành là phải đào tạo tại chỗ, phối hợp với toà tổ chức được bao nhiêu phiên toà rút kinh nghiệm để đánh giá chất lượng tranh tụng, đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên tại phiên toà. Những rút kinh nghiệm này đều có tác dụng rất tốt cho việc trao đổi kinh nghiệm và nâng cao trình độ của anh em.
Các nhiệm vụ về tổ chức, chúng tôi cũng đã có những thay đổi đổi mới về mặt tổ chức, chuyển cơ cấu tổ chức từ chuyên khâu trở thành thông khâu, từ khu vực sang lĩnh vực, trước đây trong đơn vị của chúng tôi, trong Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, để đơn vị nào cũng có đơn vị kiểm sát giải quyết án miền Bắc, miền Nam, miền Trung. Cách tổ chức như vậy cũng có thuận lợi là giải quyết được án theo khu vực, nhưng cũng có bất cập là không tạo ra được đội ngũ chuyên gia. Chúng tôi đang nghiên cứu và thay đổi là tổ chức lại theo từng lĩnh vực, ví dụ có phòng theo dõi về án xâm phạm nhân thân, án giết người, không kể là Bắc, Trung, Nam. Cho nên khi cấp dưới xét đến các vụ án giết người sẽ giải quyết thấu đáo hơn. Với cách làm như thế này sẽ góp phần đào tạo chuyên gia chứ không chỉ là những kiểm sát viên mà việc gì cũng có thể làm được, khả năng đáp ứng sẽ tốt hơn.
Trước đây Viện Kiểm sát được tổ chức theo chuyên khâu, tức là khi kiểm sát hoạt động tư pháp thì do một kiểm sát viên đảm nhiệm, kết thúc giai đoạn điều tra, chuyển sang tòa thì do một kiểm sát viên khác, có sự bàn giao. Nhưng do yêu cầu tranh tụng trước tòa ngày càng cao, một trong những điều kiện của tranh tụng chính là phải nắm chắc tình hình vụ án, cho nên chúng tôi yêu cầu phải đổi lại, anh kiểm sát điều tra đồng thời phải là anh tranh tụng trước tòa, lúc đó sẽ nâng cao được chất lượng. Đây là một trong những giải pháp của chúng tôi. Tuy nhiên đòi hỏi của cải cách tư pháp rất cao, trước mắt vẫn còn nhiều việc đang là thách thức, cho nên chúng tôi cần phải tiếp tục nâng cao hơn nữa, với hy vọng sự ra đời của Trường Đại học Kiểm sát sẽ từng bước khắc phục được khó khăn của chúng tôi.
Về Nghị quyết 37, có thể nói lần đầu tiên Quốc hội có nghị quyết về công tác tư pháp. Bằng Nghị quyết này Quốc hội cũng khẳng định những đóng góp quan trọng và hiệu quả của các cơ quan tư pháp, bao gồm công an, viện, tòa, thi hành án trong việc bảo vệ pháp luật, đảm bảo an ninh trật tự, bảo vệ nhân dân, duy trì kỷ cương, kỷ luật của phép nước.
Tuy nhiên, trong Nghị quyết này chỉ ra rất nhiều tồn tại, đặc biệt là đưa ra những giải pháp và các yêu cầu rất cao đối với các cơ quan tư pháp, trong đó có ngành kiểm sát. Chúng tôi cũng ý thức và xem việc triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết 37 là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, nhiệm vụ trọng tâm của 2013 và những năm tiếp theo. Theo tinh thần đó, chúng tôi đã quán triệt đến toàn ngành, đến tận kiểm sát viên cấp huyện về Nghị quyết quan trọng này. Chúng tôi cũng đã có các chỉ thị chuyên ngành trên từng lĩnh vực, chỉ thị công tác năm và chỉ thị chuyên ngành về thực hiện Nghị quyết 37. Chúng tôi đã thay đổi hệ thống chỉ tiêu của chúng tôi, các hệ thống chỉ tiêu pháp luật trong đó có quán triệt các chỉ tiêu của Nghị quyết 37. Nhiều địa phương các đồng chí còn tham mưu cho cấp ủy, Hội đồng nhân dân ban hành các nghị quyết về thực hiện Nghị quyết 37 và các địa phương đều đã có tổ chức họp bàn với ba ngành: Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án Nhân dân, để bàn triển khai Nghị quyết 37 như thế nào cho tốt và tinh thần của chúng tôi tập trung theo ba yêu cầu:
Một là phải khắc phục được những tồn tại do Nghị quyết 37 nêu lên. Vì Nghị quyết 37 nêu một số tồn tại thì không phải một sớm, một chiều có thể khắc phục được nhưng những tồn tại có thể khắc phục được thì từng bước sẽ khắc phục, trong đó có những tồn tại mà các đại biểu hỏi những câu hỏi tiếp theo.
Hai là phải thực hiện bằng được các chỉ tiêu, coi đây là chỉ tiêu pháp lệnh trong ngành và cùng với các ngành liên quan thực hiện các chỉ tiêu của hệ thống tư pháp.
Ba là phải tập hợp báo cáo được cho Quốc hội những nội dung báo cáo mới theo yêu cầu của Nghị quyết 37, vốn yêu cầu chúng tôi bằng công tác kiểm sát hoạt động tư pháp thì vào cuối năm 2013 sẽ phải báo cáo nhận diện đầy đủ hơn về những phần được, phần chưa được trong hoạt động tư pháp thông qua chức năng, nhiệm vụ của Viện Kiểm sát.
Tổ chức thực hiện chúng tôi cũng đã có rất nhiều biện pháp để tổ chức thực hiện Nghị quyết 37. Còn đại biểu có quan tâm là liệu một số chỉ tiêu cao như vậy thì ngành có làm được không? Theo quy định cho đến giờ này chưa có số liệu tập hợp vì theo quy định cuối năm mới đánh giá, hoạt động tư pháp thường cuối năm chứ 6 tháng chưa thể đánh giá được gì. Xin hứa với Quốc hội chúng tôi cũng sẽ cùng với hợp tác chặt chẽ với Công an, Tòa án, Thi hành án, cố gắng phấn đấu hết mình để đạt được các chỉ tiêu cơ bản của Nghị quyết 37.
Về câu hỏi của đại biểu Đỗ Thị Hoàng, đoàn Quảng Ninh, về vấn đề tình hình án kinh tế và tham nhũng hiện nay rất phức tạp, nhưng tại sao xử có mức độ và đặc biệt án treo nhiều. Câu hỏi này cũng là yêu cầu của Nghị quyết 37 của Quốc hội, cũng đặt ra là tại sao án treo nhiều như thế, cũng yêu cầu các ngành phải lưu ý để khắc phục chuyện này. Chúng tôi cũng đồng tình với đánh giá của đại biểu. Quả thực án kinh tế cũng nhiều, xử treo cũng nhiều, như vậy nó tạo ra suy nghĩ là chúng ta khi đấu tranh đã không quyết tâm chống tham nhũng, chống tội phạm kinh tế.
Về án kinh tế và án tham nhũng, tính đến thời điểm này, số lượng xử án treo là 30,8%, cao hơn các loại án khác, bình quân là 21%. Đúng là án kinh tế và án tham nhũng có tỷ lệ cao hơn. Tuy nhiên ở đây có 2 phần.
Đối với án kinh tế, cũng là do quan niệm của chính sách hình sự, chú trọng của án kinh tế là phải thu hồi được tài sản chiếm được trái phép, thậm chí là phạt và đặc biệt đối với loại tội lấy đồng tiền làm phương tiện và mục đích phạm tội thì hình phạt phải là hình phạt kinh tế chứ không phải hình phạt tù.
Theo đó, đối với những vụ án kinh tế, khi đã khắc phục hậu quả, khi đã bị phạt, khi đã bị tịch thu tiền, tài sản, hàng hóa thì yêu cầu đặt ra hình phạt tù đối với án kinh tế cũng không phải cao. Điều này cũng trở thành định hướng khi chúng ta sửa đổi Luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự sau khi Hiến pháp được thông qua.
Đối với án tham nhũng, quả thực cho đến giờ này, mặc dù số lượng cao, nhưng chúng tôi cũng thống nhất với khẳng định của đồng chí Chánh án khi trả lời trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tất cả các vụ án mà xử án treo đều khẳng định cho đến giờ này là đã vận dụng pháp luật đúng. Tuy nhiên, cũng có những vụ chúng tôi có kháng nghị, trên thực tế cấp dưới xử treo, chúng tôi kháng nghị. Trong kỳ, chúng tôi kháng nghị 39 trường hợp được Tòa chấp nhận 26 trường hợp tăng hình phạt và những vụ còn lại thì đang xem xét và cấp trên xem xét là 26 trường hợp giải pháp của chúng tôi.
Một là chúng tôi phải kiểm sát chặt chẽ quá trình xây dựng các cáo trạng có đề xuất án treo. Chúng tôi yêu cầu đối với vụ án tham nhũng mà cấp dưới đề xuất án treo thì phải trình lên cấp trên để kiểm tra, trong trường hợp Tòa tuyên có xử án treo không phải là đề nghị của ngành thì phải báo cáo cấp trên để xem xét kháng nghị và trên thực tế chúng tôi cũng đã có kháng nghị một số trường hợp thành công và trong quy định của luật đối với án tham nhũng thì có rất nhiều các tình tiết có thể được vận dụng để xử dưới khung, để xử nhẹ hơn, trong đó chúng tôi có chỉ đạo là trong ngành 2 tình tiết không được vận dụng đó là tình tiết có nhân thân tốt và phạm tội lần đầu.
Đối với án tham nhũng do chủ thể chủ yếu là những người có chức, có quyền, cho nên trước thời điểm phạm tội thì hầu hết đều có nhân thân tốt. Nhưng đây không được xem như là tình tiết giảm nhẹ và phạm tội một lần cũng vậy không có trường hợp tham nhũng rồi phạm tội lại tiếp tục làm lãnh đạo để lại tham nhũng tiếp thì điều này cũng không xảy ra. Cho nên, chúng tôi yêu cầu chỉ đạo là 2 tình tiết này không được phép áp dụng trong đề xuất của Viện Kiểm sát đối với tội phạm tham nhũng.
Giải pháp liên quan đến các ngành thì chúng tôi cũng đang tập hợp tình hình, có đánh giá và sẽ tổ chức một hội nghị bàn với cơ quan điều tra, bàn với Tòa về những biện pháp để giảm án treo trong án tham nhũng. Mặc dù ta vận dụng luật là đúng, nhưng nếu quá nhiều thì cũng tạo ra phản cảm.
Về tranh tụng trước Tòa, cũng báo cáo với Quốc hội, tranh tụng trước Tòa đây là một yêu cầu để xây dựng nền tư pháp mạnh vì công lý và cũng là yêu cầu của cải cách tư pháp, Đảng cũng đã chỉ ra từ lâu và 3 ngành chúng tôi với toà án đang phấn đấu để nâng cao chất lượng tranh tụng trước toà. Quả thực do mới tiếp cận, trình độ của anh em, đặc biệt ở cơ sở tranh tụng chưa phải sắc sảo trước phiên toà. Cho nên cũng có vấn đề về chất lượng, đây cũng là một trong những yêu cầu Nghị quyết 37, yêu cầu của cải cách tư pháp và mục tiêu phấn đấu toàn ngành để nâng cao chất lượng tranh tụng trước toà. Giải pháp cho việc nâng cao tranh tụng không có cách nào khác là bắt đầu phải bằng giải pháp cán bộ đề cao tinh thần trách nhiệm của anh em, nâng cao trình độ anh em, đào tạo lại, trao đổi kinh nghiệm, có bồi dưỡng, cập nhật kiến thức và đặc biệt cùng với toà tổ chức ngày càng nhiều các phiên toà điểm rút kinh nghiệm để cho anh em kiểm sát viên tham gia. Tất cả các cấp kiểm sát đều có phiên toà này, đơn vị nào không có toà rút kinh nghiệm này chúng tôi coi như không hoàn thành nhiệm vụ, số phiên toà này càng nhiều.
Sắp tới chúng tôi sẽ tổ chức rút kinh nghiệm trên quy mô toàn quốc, ví dụ những vụ án điểm như vụ Tiên Lãng vừa rồi anh em tranh luận rất tốt, đang phối hợp để có rút kinh nghiệm phổ biến chung trong toàn ngành để trao đổi kinh nghiệm về tranh tụng.
Giải pháp về nghiệp vụ, về chuyên môn, điều kiện của tranh tụng, một mặt điều kiện cần là phải cán bộ tốt, điều kiện đủ là phải nắm chắc hồ sơ cho nên không có cách nào khác là phải tăng cường việc bám sát gắn công tố với điều tra, gắn chặt quá trình của kiểm sát với quá trình điều tra, anh kiểm sát điều tra tốt bao nhiêu, nắm chắc bao nhiêu thì chất lượng tranh tụng sẽ tốt bấy nhiêu. Đây cũng là một yêu cầu nghiệp vụ đối với ngành.
Một việc nữa về tranh tụng gồm nhiều bên báo cáo với Quốc hội, bên toà, bên viện, bên luật sư tranh tụng như vậy, tham gia của nhiều bên. Môi trường tranh tụng hiện nay đối với chúng ta đang rất hạn chế.
Theo thống kê của Toà án, của Bộ Tư pháp thì số vụ án hình sự mà có sự tham gia của luật sư trên phạm vi toàn quốc thì trong trường hợp này là 21%, tôi lấy số liệu của Bộ Tư pháp. 80% còn lại thì không có môi trường tranh tụng, còn trong 21% thì một nửa là luật sư chỉ định và một nửa là luật sư theo yêu cầu của bị can, bị cáo hoặc gia đình. Trong nửa mà luật sư chỉ định, theo yêu cầu của luật cũng có vấn đề là chất lượng của luật sư, anh em đầu tư cũng hạn chế, cho nên ra Tòa thì không tranh tụng nhiều trong phần án này. Giải pháp của chúng tôi về trước mắt chúng tôi phối hợp với Liên đoàn Luật sư, đặc biệt là với cơ quan điều tra, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho luật sư tham gia vụ án ngay từ đầu, không có cản trở gì, sẽ tiếp cận với luật sư tạo nên môi trường tranh tụng và lâu dài thì sẽ có sửa Luật Tố tụng hình sự để tạo điều kiện tốt hơn cho luật sư có thể tham gia các vụ án.
Đại biểu Đỗ Thị Hoàng còn một câu hỏi nữa về án Giám đốc thẩm và ý thứ hai liên quan đến một vụ án cụ thể ở Quảng Ninh. Về vụ án cụ thể ở Quảng Ninh, chúng tôi đã chỉ đạo với Quảng Ninh. Tuy nhiên, sau khi có ý kiến của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, cũng như Tòa án Nhân dân Tối cao thì Quảng Ninh vẫn xử không theo đường lối đó, báo cáo với Quốc hội, theo quy định của luật thì cấp xét xử là cấp độc lập, người ta không bắt buộc phải theo chỉ đạo ở trên. Tuy nhiên, trong trường hợp nếu có sai thì chúng tôi sẽ có kiến nghị và sẽ được giải quyết ở cấp cao hơn.
Về giám đốc thẩm, báo cáo Quốc hội tôi cũng cố gắng trả lời ngắn để được nhiều câu hỏi. Quả thực trong kỳ chúng tôi cũng đã có kháng nghị rất nhiều và tính đến thời điểm này, tỷ lệ kháng nghị của viện được tòa chấp nhận là 75%, so với chỉ tiêu của Nghị quyết 37 thì đạt được chỉ tiêu Nghị quyết 37. Cũng đồng tình với đánh giá của đại biểu, kháng nghị này là nhiều nhưng quả thực trong tình hình hiện nay cũng phải chấp nhận phần nào và khi có sai thì chúng tôi kháng nghị và kết quả là đạt được chỉ tiêu mà Quốc hội đã giao cho chúng tôi.
Về câu hỏi của đại biểu Trương Thái Hiền, đoàn Kiên Giang, về vấn đề dân sự hóa hình sự, đặc biệt là Điều 140, báo cáo Quốc hội, đã có một thời các cơ quan tư pháp bị phê bình là hình sự hóa dân sự, bây giờ làm một hồi thì có vẻ như đang dân sự hóa hình sự. Đặc biệt liên quan đến tình hình như đại biểu đã phản ánh là người nghèo đi vay tiền với lãi suất cao, không vay được ngân hàng mà phải vay qua đầu nậu, từ những người cho vay nặng lãi không phải bằng khế ước vay tiền mà là cầm cố hoặc hợp đồng bán nhà, bán ruộng và đẩy nông dân vào tình hình mất nhà, mất ruộng sau một thời gian ngắn bị lãi suất nặng nhân lên. Câu chuyện này là câu chuyện tự nguyện của bà con trước khi lấy tiền nên rất khó trong khi xử lý. Sau khi đi kiểm tra ở Tây Ninh, chúng tôi phát hiện tình hình này rất phổ biến ở Nam Bộ. Chúng tôi yêu cầu tất cả các Viện Kiểm sát phải tập hợp tình hình này và cuối năm sẽ đánh giá. Về việc có sửa Điều 139, 140 hay không, chúng tôi đồng tình với quan điểm của đại biểu là khi sửa đổi Luật Hình sự cũng như các chế định liên quan của tố tụng hình sự thì điều này phải sửa để bảo vệ bà con, bảo vệ nông dân, nếu không hạn chế của luật pháp sẽ đẩy người dân vào chỗ mất nhà, mất ruộng khá nhiều, về tham gia dân sự báo cáo với đại biểu Luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính mới có hiệu lực.
Bộ Luật Tố tụng dân sự có hiệu lực từ tháng 7/2011. Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực từ 1/1/2012. Theo đó Viện Kiểm sát tham gia các phiên toàn giải quyết 2 loại án này nhiều hơn. Những việc cụ thể thì khá nhiều, báo cáo với Quốc hội, số lượng công việc của chúng tôi tăng lên rất nhiều, có những loại việc tăng 200% như đã nêu. Bắt đầu tham gia các tố tụng này chắc chắn sẽ còn nhiều bỡ ngỡ cho nên tình trạng chậm án vẫn còn xảy ra, tôi rất chia sẻ với đại biểu. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ cố gắng khắc phục tình trạng này. Trên thực tế cho đến giờ này các phiên tòa dân sự, hành chính dù có chậm một chút so với quy định nhưng chúng tôi tham gia đầy đủ và chất lượng giải quyết các phiên tòa hành chính, dân sự này khả năng đáp ứng rất cao, không còn bị sửa nhiều nữa, tỷ lệ giải quyết án được nhanh hơn. Thực hiện luật này chúng tôi cũng đã bước đầu hoàn thành nhiệm vụ và cũng còn phải cố gắng hơn để nâng cao chất lượng và thời hạn.
Đối với câu hỏi của đại biểu Trương Thị Huệ, đoàn Thái Nguyên, ngoài chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện Kiểm sát được giao thêm một số chức năng trong đó có chức năng thống kê tội phạm. Nguyên tắc thống kê tội phạm chỉ thống kê những vụ án đã nằm trong quá trình giải quyết tin báo tội phạm và quá trình tố tụng hình sự, khởi tố, truy tố, bắt giam, tha, thi hành án v.v... Còn mảng về tội phạm ẩn, tham nhũng nhiều, chạy án nhiều như đại biểu nêu, cái này là phần của tội phạm ẩn, không thuộc phạm vi của thống kê tội phạm mà nó thuộc phạm vi nghiên cứu của môn khoa học tội phạm học của các nhà khoa học. Đương nhiên trên cơ sở thống kê tội phạm, chúng tôi sẽ triển khai nghiên cứu tình hình tội phạm dưới góc độ tội phạm học để có đánh giá về thực trạng những tội phạm và tội phạm ẩn, nguyên nhân, điều kiện, các chủ thể, phần này sẽ là một giải pháp về sau.
Về án hình sự, dân sự bị hủy sửa, tôi cũng đã trả lời trước đây, tỷ lệ này vẫn còn và giải pháp để khắc phục chuyện này, chúng tôi sẽ phải nâng cao hơn chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp, bám sát quá trình điều tra, kịp thời ra những yêu cầu điều tra, những kháng nghị, kiến nghị để khắc phục những thiếu sót trong quá trình điều tra. Để đảm bảo cho điều tra đúng và quá trình xét xử, chúng tôi sẽ phối hợp với Tòa để kiểm sát cho tốt làm sao chất lượng xét xử ngay từ cấp thấp, cấp sơ thẩm thì đúng người, đúng tội, không oan, không lọt.
Đại biểu Lê Đình Khanh, đoàn Hải Dương, cho rằng án trả đi, trả lại, kéo dài thời gian. Trên thực tế cũng có tỷ lệ này rất nhiều, có cả những nguyên nhân khách quan và có cả nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân chủ quan thì chất lượng điều tra, chất lượng truy tố, chất lượng xét xử chưa cao. Việc này tập trung khắc phục bằng các giải pháp cán bộ, bằng các giải pháp kiểm sát án, thực hiện các quy trình của tố tụng, các quy định của tố tụng.
Giải pháp khách quan, đối với những vụ án đặc biệt vụ án dân sự, trong trường hợp này chỉ có đúng hay sai, quyết định của Tòa chỉ hoặc đúng, hoặc sai. Cho nên khó có thể đáp ứng được đòi hỏi của các bên, hầu như mọi vụ án đều như vậy. Bên nào mà đúng thì vui vẻ, bên nào mà sai chắc chắn sẽ phải tiếp tục đề nghị kháng nghị, kháng cáo với tiếp tục khiếu kiện. Nhiều vụ án kéo dài do tình trạng này và cũng có ý kiến chỗ nọ, chỗ kia nữa, nên anh em phải xem đi, xem lại, cho nên vụ án kéo dài, có những vụ án kéo dài quá mức.
Về nghiệp vụ, chúng tôi cũng đã cố gắng chỉ đạo để hạn chế án kéo dài bằng việc phối hợp chặt chẽ từ khâu điều tra cho đến khâu xét xử. Nhưng mà luật cũng có những việc, thời hạn không được khống chế.
Ví dụ như Bộ Luật Tố tụng hình sự chỉ khống chế thời hạn rất chặt chẽ ở giai đoạn điều tra và giai đoạn truy tố. Án ở hai giai đoạn này có ngày có tháng cho nên được chấp hành rất nghiêm chỉnh, nhưng ở giai đoạn xét xử không được quy định. Lần sửa đổi tiếp theo của Bộ Luật Tố tụng hình sự, hiện nay chúng ta đang bàn để có những việc phải sửa đổi, trong đó thậm chí có thể phải áp dụng cả nguyên tắc suy đoán vô tội.
Đến một thời hạn nào đó mà không thể chứng minh được tội phạm thì phải tuyên vô tội. Khi nào có tình tiết mới thì giở ra, chứ không thể để kéo dài quá nhiều năm như thế này. Về mặt luật thì không có gì là sai cả, nhưng chúng ta đang thảo luận về Hiến pháp và chúng ta đang chuẩn bị sửa 2 Bộ luật liên quan sau Hiến pháp. Trong đó tôi thấy chương về quyền con người cũng có một điều hướng đến, tôi cũng hiểu các nhà làm luật hướng đến việc áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội.
Từ chỗ chúng ta đang suy đoán có tội trở thành suy đoán vô tội. Với việc như thế này, chúng ta khống chế thời gian của giai đoạn xét xử như điều tra truy tố thì chắc chắn tỷ lệ kéo dài sẽ được khắc phục. Tuy nhiên, nó cũng sẽ bộc lộ những việc khác nữa.
Về Khoản 2 của Điều 114 trong Hiến pháp dự thảo và đại biểu có so sánh với Điều 108 của tòa. Theo đó tòa tuân thủ pháp luật, còn Viện Kiểm sát thì khi thực hành quyền công tố phải tuân thủ pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng. Thiết kế như thế này là không có gì mâu thuẫn và không có gì là sai. Trước hết Viện trưởng khi chỉ đạo cũng phải tuân thủ pháp luật chứ không phải Viện trưởng nói đại, trái pháp luật. Kiểm sát viên tuân thủ pháp luật rồi thì Viện trưởng cũng phải tuân thủ pháp luật.
Thứ hai, quá trình của cơ quan điều tra và quá trình truy tố là khác hẳn quá trình của tòa. Tòa là mọi việc, hồ sơ họ mang lên và anh trên cơ sở hồ sơ đó, anh phán. Còn quá trình điều tra và quá trình truy tố là quá trình tìm kiếm tội phạm, tìm kiếm chứng cứ để chứng minh tội phạm, cho nên phải có phân công, phân nhiệm, anh này làm việc này, anh này làm khâu kia. Nếu điều tra viên mà không tuân thủ thủ trưởng điều tra hay kiểm sát viên mà không chịu sự phân công của Viện trưởng thì mỗi anh một phách, không ổn. Quá trình anh đi khắp nơi, lang thang hàng tháng trời để anh kiếm chứng cứ thế còn toà chỉ tại phiên toà trên cơ sở hồ sơ, anh nghiên cứu sau và anh chỉ được tuân thủ pháp luật trên cơ sở hồ sơ người ta đã mang về cho anh. Quá trình điều tra và công tố chỉ được kết thúc sau khi toà đã tuyên, nói về mặt hệ thống vừa tập trung và dân chủ nó đan xen nhau đảm bảo cho vụ án đi đến kết luận chính xác đúng người đúng tội. Cho nên thiết kế trong Hiến pháp hai điều luật này theo tôi không có gì mâu thuẫn.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng: Đề nghị các vị Bộ trưởng, Trưởng ngành tư pháp, công an, Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao, Tổng Thanh tra Chính phủ, các đồng chí suy nghĩ ghi chép các câu hỏi của các vị đại biểu Quốc hội những vấn đề liên quan thì chúng tôi xin mời các vị giải trình, tiếp thu.
Đại biểu Trương Thái Hiền (đoàn Kiên Giang): Qua ý kiến của đồng chí Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao trả lời trước Quốc hội tôi cơ bản nhất trí và chia sẻ với đồng chí. Nhưng qua ý kiến đồng chí nói, chúng tôi thấy rằng có 2 vấn đề tôi còn băn khoăn:
Vấn đề thứ nhất là đồng chí nói rằng hiện nay đang tập trung thi tuyển, đào tạo, bổ nhiệm để khắc phục tình trạng kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ chậm, toà án chậm đưa hồ sơ ra xét xử. Như tôi được biết hiện nay Viện Kiểm sát cấp tỉnh, kiểm sát viên có 3-4 đồng chí theo dõi án hình sự, hành chính, còn cấp huyện 1-2. Trong khi đó toà án cấp tỉnh khoảng hơn 10 đồng chí thẩm phán, cấp huyện 4-5 đồng chí. Nếu như tình trạng này từ việc đào tạo, thi tuyển khoảng 3-4 năm nữa mới thực hiện được việc này, bây giờ giải pháp nào để khẩn trương giải quyết vấn đề này mà trong lúc đó án tồn rất nhiều? Đồng chí nói như thế tôi thấy chưa được.
Vấn đề thứ hai, đồng chí có nói hiện nay án hành chính tham gia tuy có chậm một chút nhưng đảm bảo đầy đủ, nhưng một chút thì không được, bởi vì toà án chúng tôi mà chậm thì Viện Kiểm sát kháng nghị ngay như thế thì không công bằng. Đề nghị đồng chí cũng phải có giải pháp.
Vấn đề tiếp theo, chúng tôi được biết hồi nãy một số đại biểu Quốc hội có băn khoăn chia sẻ và chúng tôi bên ngành tòa án cũng rất băn khoăn, trăn trở vấn đề này, là về vấn đề án treo trong án kinh tế. Hiện nay thực trạng mà nói, con số tỷ lệ trên 30% án treo đồng chí Chánh án chỉ đạo ráo riết trong ngành phải khẩn trương kiểm tra vấn đề này. Chúng tôi là những người thực thi nhiệm vụ của Chánh án cũng kiểm tra và giải quyết vấn đề này rất cương quyết. Nhưng luật hiện nay chưa được điều chỉnh bổ sung là Điều 46 quy định tình tiết, "nếu có 3 tình tiết giảm nhẹ thì áp dụng theo quy định của pháp luật". Vấn đề này đề nghị Quốc hội chia sẻ với ngành tòa án là án treo nếu vi phạm pháp luật hoặc có hình thức xử lý, còn theo đúng luật thì mình phải chia sẻ với ngành tòa án vấn đề này. Cho nên chúng tôi mạnh dạn đề nghị Quốc hội tới đây nghiên cứu làm sao trong lĩnh vực án kinh tế có điều chỉnh.
Đại biểu Nguyễn Văn Hiến (đoàn Bà Rịa-Vũng Tàu): Tôi có một câu hỏi về việc thực hiện Nghị quyết 37 của Quốc hội như ý kiến của đại biểu Nguyễn Bá Thuyền thì Viện trưởng đã trả lời, tôi xin không hỏi thêm.
Tôi xin hỏi câu thứ hai, Luật Thi hành án hình sự có hiệu lực đã 2 năm, theo báo cáo của Viện trưởng, tại kỳ họp này hiện có 568 người bị kết án tử hình chưa thi hành án được, do chưa có thuốc độc. Qua giám sát của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, chúng tôi thấy áp lực trách nhiệm đối với cơ quan giam giữ rất lớn. Hà Nội hiện có tới 76 người chờ thi hành án tử hình, trong khi chỉ có 62 phòng giam cho đối tượng này. Ở đâu cũng thế, điều kiện giam giữ ngặt nghèo, thời gian giam giữ cho bị án quá lâu, có bị án đã 5 đến 6 năm chưa thi hành án được, tâm lý căng thẳng bao trùm, không chỉ đối với phạm nhân mà còn căng thẳng đối với cán bộ, chiến sĩ quản lý đối tượng này, ngay cả phạm nhân cũng chịu không nổi, có những phạm nhân đã viết đơn xin được thi hành án. Với trách nhiệm kiểm sát thi hành án hình sự, đề nghị Viện trưởng cho biết ngành kiểm sát đã kiểm sát việc này như thế nào, trách nhiệm của ngành kiểm sát và các ngành liên quan để nhanh chóng giải quyết tồn tại này?
Đại biểu Đặng Thị Kim Chi (đoàn Phú Yên): Qua theo dõi công tác thi hành án dân sự trong những năm gần đây cho thấy số lượng của các bản án quyết định có nội dung tuyên không rõ ràng còn nhiều và điều này đã tác động đến tiến độ công tác thi hành án dân sự cũng như ảnh hưởng đến quy định và lợi ích hợp pháp của người dân. Xin hỏi Viện trưởng, với trách nhiệm thực hiện kiểm sát thi hành án dân sự, Viện trưởng cho biết tại sao tình trạng trên lại tồn tại như thế và giải pháp để khắc phục việc có những bản án quyết định có nội dung tuyên không rõ ràng trong thời gian sắp tới. Tôi xin cảm ơn Viện trưởng?
Đại biểu Nguyễn Hữu Đức (đoàn Đồng Tháp): Tôi xin đặt câu hỏi, theo Báo cáo của Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao tại kỳ họp lần thứ 5 của Quốc hội thì đến thời điểm này ngành Tòa án đã thụ lý đề nghị Giám đốc thẩm, tái thẩm là 6.755 vụ, trong đó đã kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm là 294 vụ, với cơ quan giám sát các hoạt động tư pháp thì đề nghị Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cho biết trong số 294 vụ đã kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm thì đặc biệt tôi quan tâm là án dân sự, các tranh chấp như tài sản, đất đai thì các cấp Tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm đã tổ chức thực hiện như thế nào, kết quả ra sao và đồng thời câu hỏi này tôi cũng xin chuyển đến Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao đã theo dõi kiểm tra và thực hiện. Việc thực hiện các quyết định Giám đốc thẩm của Tòa án Nhân dân Tối cao trong thời gian vừa qua.
Đại biểu Đào Thị Xuân Lan (đoàn Hưng Yên): Sau đây, tôi xin được gửi đến Viện trưởng 2 câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất, tại Báo cáo của Viện trưởng gửi đến kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XIII, có nêu kết quả thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ theo Nghị quyết 37 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, trong đó thông qua công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp thì vẫn còn nổi lên một số tồn tại và hạn chế như tiến độ giải quyết một số vụ án hình sự, nhất là các vụ án trọng điểm còn kéo dài thông qua công tác giám sát của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội thì chúng tôi thấy đây cũng là một tồn tại đã có từ nhiều năm. Vì vậy với chức năng, nhiệm vụ của mình, đề nghị đồng chí Viện trưởng cho biết nguyên nhân của tồn tại nêu trên và Viện trưởng đã có giải pháp đột phá nào để khắc phục tồn tại này.
Câu hỏi thứ hai, để giải quyết công tác cán bộ và chế độ, chính sách cho kiểm sát viên của ngành kiểm sát. Tại Quốc hội Khóa XII, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh về kiểm sát viên Viện Kiểm sát Nhân dân, trong đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã điều chỉnh lại chế độ kiểm sát viên cao cấp, kiểm sát viên trung cấp và kiểm sát viên sơ cấp cho ngành kiểm sát. Vậy đề nghị đồng chí Viện trưởng cho biết ngành kiểm sát đã triển khai thực hiện Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung như thế nào và có gặp khó khăn, vướng mắc gì không, có kiến nghị gì không để nâng cao chất lượng công tác cán bộ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới? Xin hết, xin cảm ơn Viện trưởng.
Đại biểu Lê Đình Khanh (đoàn Hải Dương): Hai câu hỏi của tôi Viện trưởng mới trả lời được một phần. Câu thứ nhất, với trách nhiệm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh nhưng tôi cho rằng thời gian gần đây kỷ cương phép nước không được nghiêm, trách nhiệm của Viện trưởng đối với việc bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ như thế nào trong thời gian tới đây?
Thứ hai là một số vụ án xử đi xử lại, Viện trưởng nêu ra chủ yếu là án dân sự nhưng tôi nêu cụ thể phía Bắc có, phía Nam có, đó là một số vụ án hình sự, ví dụ như vụ án Vườn mít ở trong Nam, xử đi xử lại, lúc bảo người ta phải tử hình, lúc lại bảo tha bổng. Tôi cho rằng trách nhiệm kiểm sát ở đây là rất rõ ràng, tuân thủ pháp luật có đúng không? Hay là vụ 3 thanh niên hiếp dâm ở phía Bắc lúc thả ra, lúc lại đưa vào, tôi thấy rõ ràng kể cả tòa án và viện kiểm sát làm chưa tốt vấn đề này.
Trong nguyên tắc thượng tôn pháp luật ở câu hỏi thứ hai, Viện trưởng nói là tòa án khi xét xử chỉ căn cứ vào hồ sơ, tôi cho rằng như vậy chắc những người làm công tác xét xử cũng không yên tâm lắm, vì quan trọng là tranh tụng tại phiên tòa, chứng cứ đưa ra tại phiên tòa và lời khai tại phiên tòa còn hồ sơ vụ án là để xem xét nhưng không phải dựa hoàn toàn vào hồ sơ, nếu dựa hoàn toàn vào hồ sơ thì không cần gì phải ra tranh tụng. Tôi thấy cách nói ấy chưa ổn lắm, hơn nữa thượng tôn pháp luật ở đây đương nhiên Viện trưởng cũng phải tuân theo pháp luật và kiểm sát viên cũng phải tuân theo pháp luật. Nhưng nếu như ý kiến của Viện trưởng trái với pháp luật thì người kiểm sát viên có buộc phải tuân theo ý kiến Viện trưởng không? Nếu tuân theo thì những sai phạm ấy ai chịu trách nhiệm? Tôi thấy ở đây là mâu thuẫn quy định giữa Tòa án với Viện Kiểm sát, hai cái điều có những cái chưa phù hợp với pháp luật.
Viện trưởng Nguyễn Hòa Bình: Về câu hỏi của đại biểu Nguyễn Văn Hiến liên quan đến thi hành án tử hình. Hiện nay chúng ta còn hơn 586 bản án đã tuyên. Trong đó có khoảng 117 bản án đã có điều kiện thi hành. Chúng tôi cũng rất chia sẻ ý kiến của đại biểu, những áp lực đối với bị cáo và áp lực đối với cơ quan giam giữ. Thực ra thì kéo dài tình trạng pháp lý đối với bị cáo đấy cũng là một phần nhân đạo của nền tư pháp.
Chúng tôi cũng đã có báo cáo trong kỳ họp trước với Quốc hội. Giải pháp của chúng tôi, một mặt là tăng cường kiểm sát giam giữ, dẫu rằng đã có bản đã tuyên nhưng vẫn chưa thi hành thì mọi chế độ vẫn phải đảm bảo. Hơn nữa số này quá nửa là mắc bệnh nguy hiểm, lây nhiễm, nên các chế độ chăm sóc y tế vẫn phải đảm bảo. Giam giữ cũng phải chặt chẽ để tránh những hậu quả pháp lý ví dụ như trốn, tự sát v.v...
Còn giải pháp lâu dài, chúng tôi cũng vẫn kiên trì phối hợp với Bộ Công an, có lẽ đồng chí Bộ trưởng trả lời thêm về nội dung này, báo cáo Chính phủ để phối hợp với Bộ Y tế có thông tư, có sửa thông tư rồi để thực thi việc này. Nhưng về lâu dài chúng tôi vẫn đề nghị với Quốc hội xem xét đến việc sửa lại Luật Thi hành án tử hình, trong điều kiện hiện nay, cho phép tồn tại song song hai hình thức: hình thức cũ là bắn và hình thức mới tiêm thuốc độc.
Báo cáo với Quốc hội, dẫu chúng ta có thay đổi tên thuốc hay gì đó thì thực tế vẫn còn nhiều khó khăn khác chứ không phải chỉ có dừng lại ở chỗ tên thuốc.
Câu hỏi của đại biểu Đặng Thị Kim Chi ở Phú Yên về những bản án tuyên không rõ ràng. Về giải pháp, đúng là cũng có rất nhiều bản án tuyên không rõ và rất khó thực thi. Theo thống kê của Bộ Tư pháp thì số lượng rất lớn, số lượng của Bộ Tư pháp mỗi năm cũng phải đến cả ngàn vụ, việc này chúng tôi cũng đã có giải pháp quyết liệt để khắc phục, đã chỉ đạo kiểm sát chặt chẽ quá trình xét xử và quá trình gửi bản án để thực thi, đặc biệt đối với những hình sự thì án tuyên không rõ thì mức độ nhưng đối với án dân sự có những bản án tuyên không rõ, trách nhiệm chúng tôi trong tất cả những bản án chúng tôi cũng đều có kháng nghị, có đề nghị tòa xem xét lại đối với bản án không rõ ràng.
Về tổng thể chúng tôi cũng đã tập hợp đánh giá tình hình chung, cũng sẽ có phối hợp với Tòa để có thông tư hướng dẫn thống nhất để cho Viện, Tòa thực hiện.
Đối với ngành kiểm sát, chúng tôi coi đây là một chỉ tiêu để thực hiện các nhiệm vụ của ngành, các anh tham gia phiên tòa mà để kiểm sát không đầy đủ để cho Tòa tuyên những bản án khó thực thi thì việc này thuộc về trách nhiệm của kiểm sát viên, sẽ xem xét đến về mặt cán bộ.
Về câu hỏi của đại biểu Đào Thị Xuân Lan, đoàn Hưng Yên, tiến độ giải quyết các vụ án điểm kéo dài. Đúng đây là một tình hình đã tồn tại nhiều năm như đại biểu đã nêu và án kéo dài thì án điểm có hai loại trong phần hình sự, phần này cũng hạn chế mức độ thôi, nhưng án kinh tế và tham nhũng thì kéo dài và phổ biến, việc này hầu hết các vụ án lớn về kinh tế và tham nhũng đều kéo dài. Nguyên nhân có nhiều, trong đó án kinh tế thường là án khó, đối tượng đông và phụ thuộc nhiều vào giám định. Chúng ta quy định rất chặt chẽ về thời hạn cho các hoạt động tố tụng, riêng thời hạn giám định chúng ta chưa có quy định, cho nên rất nhiều vụ án phải phụ thuộc vào giám định, đặc biệt là giám định tài chính, giám định công trình xây dựng v.v... những giám định đó rất khó khăn. Về việc này, Đồng chí Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang khi trả lời trước Quốc hội lần trước đã nêu đề nghị chúng ta phải có thay đổi các quy định về giám định, đây cũng là loại án phức tạp, thủ đoạn tinh vi. Tuy nhiên, kéo dài vẫn là lỗi, là điều không nên. Giải pháp thì chúng tôi sẽ cùng Bộ Công an, Tòa án bàn và phối hợp để khắc phục, trong đó có cả thẩm quyền điều tra nữa, nếu điều tra không đúng thẩm quyền cũng làm cho án bị kéo dài, vì sau khi kết thúc điều tra bộ phải chuyển xuống bên dưới để xử, quá trình bàn giao hồ sơ là quá trình thâm nhập tài liệu từ đầu, cho nên tiếp cận hồ sơ phải kéo dài. Việc này chúng tôi sẽ có đánh giá và khắc phục.
Về thực hiện nghị quyết của Quốc hội về kiểm sát viên. Hiện nay số lượng kiểm sát viên của chúng tôi đang thiếu, đại biểu hỏi là có kiến nghị gì không. Xin báo cáo là số lượng kiểm sát viên của chúng tôi so với tình hình án hành chính, dân sự và hình sự hiện nay rất thiếu, cơ cấu kiểm sát viên ở mỗi cấp không hợp lý. Bước đầu chúng tôi có đề xuất và được Quốc hội đồng ý cho các đồng chí Viện trưởng cấp huyện là kiểm sát viên trung cấp. Từ khi vào ngành đến khi về hưu nếu làm ở huyện thì sơ cấp cho đến lúc nghỉ, cái này mặc dù khả năng giải quyết án những án rất lớn, rất cao, rất nghiêm trọng. Đây là cơ cấu không hợp lý. Chúng tôi đã đề nghị và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội bước đầu đồng ý tháo gỡ, cho phép Viện trưởng huyện được trung cấp. Báo cáo Quốc hội, hôm nay với sự hỗ trợ của các Hội đồng tuyển dụng toàn quốc, chúng tôi đã hoàn tất việc bổ nhiệm các kiểm sát viên cấp huyện là trung cấp. Tuy nhiên, trong điều kiện tăng biên chế thì không được, việc thì cứ tăng, biên chế rất hạn chế. Chúng tôi trong lần sửa đổi Luật tổ chức của ngành, tổ chức của Viện kiểm sát, chúng tôi sẽ có đề xuất tăng số lượng kiểm sát viên và ấn định tỷ lệ cơ cấu kiểm sát viên hợp lý ở mỗi cấp kiểm sát. Với việc làm như thế này sẽ phần nào tháo gỡ được khó khăn của ngành, đáp ứng được yêu cầu.
Ý kiến của đại biểu Lê Đình Khanh về các vụ án cụ thể chủ yếu là dân sự chứ không nói hình sự không có án kéo dài. Thực sự 2 vụ án hình sự đại biểu nêu đúng là án kéo dài. Tôi đã nói ban đầu tố tụng hình sự có vi phạm không, Luật Tố tụng hình sự khống chế giai đoạn điều tra các thời hạn ở giai đoạn tố tụng còn giai đoạn xét xử không khống chế, Trả tới, trả lui theo quy định của luật không khống chế thì không vi phạm. Tuy nhiên việc này không hay. Sắp tới phải sửa như thế nào và quyết định như thế nào phụ thuộc vào Quốc hội để chúng ta khắc phục tình trạng này. Tôi không nói dựa vào hồ sơ, tôi nói cái khác của công an, của Viện là quá trình đi thu thập hồ sơ, thu thập chứng cứ phải đi khắp nơi, rất dài, còn quá trình xét xử chỉ trên cơ sở hồ sơ và tranh tụng tại tòa. Nếu như không tuân thủ thủ trưởng cơ quan điều tra hay không tuân thủ Viện trưởng, không tuân thủ sự phân công thì cũng không được. Đây là điều hành trong tố tụng buộc phải như thế.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng: Xin phép Quốc hội dành cho Chánh án, Bộ trưởng Bộ Công an sẽ phát biểu giải trình thêm. Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao có thể nói là nhiều câu hỏi từ sáng tới giờ đại biểu đặt ra liên quan đến công tác xét xử. Bộ trưởng Bộ Công an cũng có vài ý liên quan đến công tác điều hành của ngành, của Chính phủ, nhất là thi hành án tử hình. Tôi thấy việc này Viện trưởng đã nói nhưng xin đề nghị Bộ trưởng nói thêm tình hình tội phạm tăng, tham nhũng nhiều, xử lý ít v.v... có thể nói trong điều tra có vấn đề gì xin đồng chí nói thêm.
Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Trương Hòa Bình: Tôi thấy nội dung trả lời của Viện trưởng Nguyễn Hòa Bình cũng đã khá rõ các câu hỏi đại biểu Quốc hội đã nêu. Tôi muốn trình bày thêm: Thứ nhất, có hai đại biểu nêu vấn đề án tuyên không rõ, cho nên gây ra dư luận xã hội có đánh giá về tính nghiêm minh của pháp luật. Vấn đề này Chánh án cũng đã trả lời nhiều lần tại diễn đàn Quốc hội. Việc bản án tuyên không rõ dẫn đến không thi hành án được phải trên cơ sở có sự thống kê thống nhất của 3 cơ quan. Vừa qua thống kê của Bộ Tư pháp có nêu trong năm 2011 và năm 2012 số bản án tuyên không rõ ràng là trên 1.000, trên tổng số hàng vài trăm ngàn vụ án xét xử. Nhưng khi có tình hình đó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao đã có văn bản chỉ đạo yêu cầu toà án các cấp phối hợp với Viện Kiểm sát và cơ quan thi hành án phân loại cho rõ, bản án nào đã tuyên rõ rồi, nhưng mà cơ quan thi hành án chưa thi hành. Bản án nào tuyên không rõ, thì phân loại ra. Một là tuyên không rõ mà có thể giải thích được thì giải thích rõ để thi hành. Bản án nào tuyên không rõ, không thể thi hành được thì phải kiến nghị, kháng nghị để giải quyết lại, tuyên lại cho rõ. Bản án nào đã tuyên rõ rồi, nhưng mà cơ quan thi hành án chưa thi hành thì 3 cơ quan đều phải có trách nhiệm.
Nếu án tuyên không rõ, cơ quan thi hành án không thi hành được thì phải có trách nhiệm kiến nghị với Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, hoặc Chánh án Tòa án địa phương theo thẩm quyền để kháng nghị. Viện Kiểm sát Nhân dân cũng phải có trách nhiệm giám sát kiểm tra. Tức là kiểm sát hoạt động thi hành án và thấy bản án tuyên không rõ, không thể thi hành được thì cũng phải có kiến nghị Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao hoặc Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao để kháng nghị và tòa án cũng thế.
Theo cơ chế này, 6 tháng đầu năm nay chúng tôi đã kiểm tra thì có 79 bản án tuyên không rõ, con số không lớn lắm. Trong đó có 72 vụ tòa án đã giải thích và tiến hành thi hành án được. Còn lại 7 vụ thì có kháng nghị. Chúng tôi cũng đang vận hành cơ chế phối hợp này và sẽ phối hợp liên ngành để xây dựng thành một thông tư liên ngành chỉ đạo việc thực hiện thi hành án cho nó đạt hiệu quả. Đây là vấn đề hôm nay cũng xin báo cáo rõ lại với Quốc hội một lần nữa và dư luận xã hội có những đánh giá cho đúng về việc án tuyên không rõ.
Vấn đề thứ hai, cũng là vấn đề án treo. Cũng nhiều lần Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao đã báo cáo trước Quốc hội rồi. Theo số liệu năm 2010 số án treo là 36,5%, năm 2011 là 37,1%, năm 2012 là 30,2%. Con số có chiều hướng giảm, nhưng mà thực chất đánh giá việc án treo không phải là đánh giá trên con số, mà phải đánh giá là bản án treo có đúng hay không theo quy định của pháp luật. Vì đây là một chế định của pháp luật cho bị cáo được miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn và theo quy định của pháp luật, người ta có hội đủ những điều kiện đó thì Tòa án phải cho hưởng án treo. Chúng tôi đã có một giải pháp quyết liệt là hằng năm có nhiều đợt kiểm tra việc chấp hành án treo và gần đây cũng đã yêu cầu các Tòa án khi xét xử có bản án treo thì phải gửi về Tòa án Nhân dân Tối cao để giám đốc kiểm tra việc án treo có đúng pháp luật hay không.
Qua kết quả kiểm tra nói chung, cơ bản việc các Tòa án cho hưởng án treo đúng pháp luật, có một số vụ không đúng pháp luật, chiếm tỷ lệ khoảng 0,065% trên tổng số vụ án xét xử và chúng tôi sẽ tiếp tục làm quyết liệt để chấp hành theo tinh thần Nghị quyết 37 của Quốc hội. Chúng tôi làm quyết liệt vấn đề này thì cũng báo cáo rõ với Quốc hội như thế và chúng tôi cũng sẽ tiến hành hai giải pháp lớn về mặt tố tụng tư pháp:
Một là sẽ xây dựng thông tư liên tịch để đảm bảo các điều kiện chấp hành án treo phải đúng pháp luật, nhưng đồng thời cũng nghiêm, nhất là đối với án tham nhũng.
Hai là đối với Luật Hình sự thì sắp tới chúng tôi cũng sẽ đề xuất, kiến nghị để bổ sung điều chỉnh lại điều về cho án treo và Điều 46 tức là tình tiết giảm nhẹ của Luật Hình sự, để đảm bảo pháp luật được thực hiện theo đúng chính sách hình sự của Đảng có khoan hồng, nhưng cũng có nghiêm minh đối với những trường hợp phạm tội cầm đầu, chủ mưu, thủ ác v.v... Chúng tôi xin được giải trình thêm về án treo như thế.
Ba là án xử đi, xử lại và không tuân theo đường lối kháng nghị của Viện trưởng hay của Chánh án và án giám đốc.
Báo cáo với Quốc hội, chúng ta có theo một cơ chế có phá án khi thấy bản án có những căn cứ vi phạm pháp luật, Chánh án hoặc Viện trưởng kháng nghị thì Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao sẽ xét xử lại một số bản án theo thẩm quyền và sau đó sẽ ban hành quyết định giám đốc, nhưng cũng có một số trường hợp Tòa án cấp dưới xét xử lại nhưng không tuân theo đường lối của giám đốc và xét xử lại có khi lại trở lại như bản án đã bị kháng nghị. Đây là một vấn đề lớn trong tố tụng liên quan đến việc quy định của pháp luật, chúng tôi cũng đã kiến nghị với Quốc hội trong việc sửa đổi Hiến pháp và sắp tới đây sẽ đưa vào sửa đổi các luật là các điều quy định tòa án cấp dưới có nghĩa vụ phải tuân theo đường lối xét xử của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao.
Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang: Cho phép tôi xin được báo cáo bổ sung một số vấn đề có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Bộ Công an.
Trước hết, tôi xin báo cáo về vấn đề thi hành án tử hình, chúng tôi chân thành cảm ơn sự quan tâm của Quốc hội, của các vị đại biểu về những khó khăn trong việc quản lý, giam giữ những đối tượng bị tuyên án tử hình đang chờ để thi hành án tử hình.
Căn cứ vào Luật Thi hành án hình sự, Bộ Công an đã khẩn trương triển khai việc thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc và chúng tôi đã ban hành những quy trình để tiến hành thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc. Chúng tôi đã tập huấn cho đội ngũ thi hành án hình sự trong công an nhân dân và quân đội nhân dân để áp dụng hình thức này. Chúng tôi cũng đã xây dựng 5 cơ sở để thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc ở 5 khu vực trong cả nước, nhưng có một điều khó khăn đó là chúng ta chưa có thuốc độc để thi hành án do Nghị định số 82 ngày 16/9/2011 của Chính phủ vì phải nhập loại thuốc đó ở nước ngoài. Chính vì khó khăn đó cho nên chưa thực hiện được việc thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc.
Để khắc phục tình trạng đó, Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Y tế và các ngành chức năng kiến nghị với Chính phủ và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47 ngày 13/5/2013 thay thuốc đó bằng nguồn thuốc sản xuất trong nước. Nghị định 47 của Chính phủ sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 27/6/2013, sau khi Nghị định có hiệu lực thì chúng tôi sẽ tiến hành ngay hình thức thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc.
Việc thứ hai, liên quan đến cơ quan điều tra và chức năng của Bô Công an, có nhiều đại biểu rất quan tâm vì sao tiến độ điều tra của các vụ án kinh tế, tham nhũng bị kéo dài. Khi trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 3 tôi cũng đã báo cáo rất cụ thể những khó khăn trong việc điều tra xử lý các vụ án kinh tế, đặc biệt là vụ án tham nhũng. Đối tượng của các vụ án này là những người có chức vụ, quyền hạn, cũng có dùng thủ đoạn che giấu tội phạm, xóa dấu vết, xóa chứng cứ và các vụ án kinh tế, vụ án tham nhũng thông thường phát hiện cũng chậm, sau khi tội phạm xảy ra nhiều năm, cho nên gây khó khăn cho việc thu thập tài liệu chứng cứ.
Vấn đề thứ hai là pháp luật quy định thời hạn điều tra vụ án, nhưng không quy định thời hạn giám định, cho nên dẫn đến nhiều vụ án hết thời gian điều tra, nhưng chưa có kết quả giám định, cho nên cũng chưa thể kết thúc vụ án được. Việc giám định các tài liệu như kế toán, kiểm toán, giám định các lĩnh vực chuyên ngành như xây dựng, tài chính v.v... thường kéo dài và phải chi phí một khoản kinh phí cũng khá lớn. Một số cơ quan trưng cầu giám định cũng có biểu hiện né tránh thực hiện việc giám định các vụ án này.
Vấn đề thứ ba là việc điều tra các vụ án tham nhũng có yếu tố nước ngoài thì cũng gặp rất nhiều khó khăn, bởi vì chúng ta chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp với nhiều nước trên thế giới. Cho nên vấn đề này cũng thường kéo dài.
Về vấn đề lập pháp thì tôi cũng đã báo cáo với Quốc hội là trong quy định của Bộ luật Hình sự, ở Chương XXI có 7 tội danh về tham nhũng, nhưng trong đó có rất nhiều vấn đề cần phải cụ thể hóa, ví dụ thế nào là ít nghiêm trọng, thế nào là nghiêm trọng, thế nào là rất nghiêm trọng, thế nào là đặc biệt nghiêm trọng thì vấn đề này cũng là khó khăn trong việc vận dụng để thống nhất đánh giá tài liệu chứng cứ và tiến hành xác định các tội danh để đưa ra truy tố, xét xử.
Một lý do nữa là chậm thì tôi rất đồng tình với ý kiến của đồng chí Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao là các vụ án này nó có liên quan đến thẩm quyền điều tra truy tố và xét xử. Có nhiều vụ án tham nhũng, vụ án kinh tế, nhưng cơ quan điều tra ở Bộ Công an điều tra, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao giám sát và sau khi quyết định đưa ra truy tố theo quy định thì phải biết được vụ án và mức tù thấp thì chuyển cho Tòa án cấp dưới để xét xử quy định. Sau khi chuyển hồ sơ xuống Tòa án cấp dưới và Viện Kiểm sát cấp dưới thì trong vòng 1 tháng phải đưa ra xét xử. Chính vì thế, kiểm sát viên của các Viện kiểm sát cấp dưới cũng như thẩm phán của các Tòa án cấp dưới trong 1 tháng tiếp cận hồ sơ vụ án cũng chưa kỹ, nghiên cứu chưa sâu dẫn đến khi đưa ra xét xử đối tượng là phản cung, tranh tụng, tranh luận cũng gặp người khó khăn, dẫn đến vụ án có khi phải trả lại điều tra tiếp hoặc phải để thời gian kéo dài. Đấy cũng là nguyên nhân.
Để khắc phục tình trạng này chúng tôi đã chủ động phối hợp với Viện Kiểm sát và Tòa án tăng cường các biện pháp để làm sao thúc đẩy nhanh tiến độ điều tra đang xét xử các vụ án này.
Về việc trong khi chờ Quốc hội sửa đổi Bộ Luật Hình sự chúng tôi đã chủ động phối hợp với Viện Kiểm sát, với Toà án có hướng dẫn thi hành những điều luật trong quy định Bộ Luật Hình sự để xác định rõ thế nào ít nghiêm trọng, thế nào là nghiêm trọng, thế nào là đặc biệt nghiêm trọng, để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng để vận dụng pháp luật để điều tra xét xử. Đấy là vấn đề liên quan đến các vụ án bị kéo dài.
Vấn đề thứ ba, tôi biết nhiều đại biểu Quốc hội cũng rất quan tâm đến vấn đề triển khai thực hiện Nghị quyết 37 của Quốc hội. Đây là lần đầu tiên Quốc hội ban hành Nghị quyết về công tác tư pháp, về công tác phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật và thi hành án. Tôi cho rằng đây là một nghị quyết rất quan trọng của Quốc hội, chính vì thế cho nên chúng tôi đã tham mưu Chính phủ có kế hoạch triển khai thực hiện. Phía Bộ Công an chúng tôi cũng đã có kế hoạch để triển khai thực hiện những mục tiêu làm sao nâng cao chất lượng giải quyết tin tố giác tội phạm và nâng cao chất lượng và kết quả điều tra xử lý các vụ án. Chúng tôi cũng đề ra một số nguyên tắc cơ bản trong việc tiếp nhận và giải quyết tin báo tố giác tội phạm.
Ví dụ: Đầu tiên là việc tiếp nhận giải quyết tố giác tin báo tội phạm phải tuân theo quy định của pháp luật, không được vì bất cứ lý do gì mà từ chối việc tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo tội phạm.
Thứ hai là khi tiếp nhận tố giác tin báo tội phạm cá nhân, đơn vị tiếp nhận không được tiết lộ nội dung tiếp nhận cho cá nhân, cơ quan, tổ chức không có thẩm quyền.
Thứ ba là cơ quan tiếp nhận giải quyết tố giác tin báo tội phạm có trách nhiệm trả lời cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã báo tin hoặc tố giác tội phạm. Cơ quan tiếp nhận giải quyết và giữ bí mật cho cơ quan, tổ chức, người cung cấp tin và hướng dẫn họ biện pháp, cách thức giữ bí mật những thông tin đã cung cấp và tố giác.
Thứ tư là trường hợp xét thấy cần thiết, cơ quan tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo có trách nhiệm áp dụng hoặc đề nghị áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã báo tin tố giác tội phạm và những người thân thích của họ.
Thứ năm là mọi trường hợp không làm hoặc làm trái các quy định về tiếp nhận giải quyết tố giác tin báo tội phạm đều xử lý theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở những nguyên tắc đó, chúng tôi đã hướng dẫn toàn lực lượng công an nhân dân để triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 37 của Quốc hội. Cũng xin báo cáo những con số bước đầu để Quốc hội nắm được là trong gần 6 tháng đầu năm 2013 cơ quan, các đơn vị địa phương chúng tôi đã tiếp nhận 56.186 tin báo tố giác của các tổ chức, cá nhân về tội phạm và tất cả các tin báo tố giác của các tổ chức, cá nhân về tội phạm chúng tôi đều đã xử lý. Hiện nay đã xác minh, kết luận được 46.321 tin tố giác, đạt 82,5% đã kết luận được, trong đó có 43.570 tin báo tố giác có thông tin, có hành vi dấu hiệu vi phạm pháp luật. Hiện nay còn 9.865 tin báo đưa ra, chúng tôi đang xác minh và kết luận. Cũng xin báo cáo với Quốc hội như thế để mà triển khai nghiêm túc Nghị quyết này và nâng cao công tác tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Để thực hiện tốt mục tiêu mà Nghị quyết 37 của Quốc hội đã đề ra, chúng tôi sẽ tiếp tục sơ kết, đánh giá việc triển khai bước đầu và tiếp tục phối hợp với các cơ quan chức năng như Viện Kiểm sát, với Bộ Quốc phòng, một số bộ có liên quan để ban hành những quy định cụ thể hóa việc tiếp nhận, xử lý các tin tố giác tội phạm.
Chúng tôi cũng đã phối hợp với các cơ quan truyền thông tổ chức tuyên truyền, phổ biến những phương thức, thủ đoạn phạm tội và các vụ việc xảy ra để người dân nâng cao ý thức phòng ngừa, nhận biết hành vi phạm tội để kịp thời báo với các cơ quan chức năng. Chúng tôi cũng đã tăng cường bảo đảm về lực lượng, phương tiện cho công tác tiếp nhận, giải quyết tin báo về tội phạm và tiếp tục thiết lập, tổ chức hoạt động các đường dây nóng, qua điện thoại, qua hộp thư, qua hòm thư tố giác tội phạm để tiếp nhận xử lý kịp thời những thông tin, tài liệu có liên quan về tội phạm và cũng đã tham mưu cho Chính phủ để ban hành những chính sách pháp luật khuyến khích, tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tự giác, tích cực tố giác ngăn chặn, đấu tranh với tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật.
Đại biểu Nguyễn Mạnh Cường (đoàn Quảng Bình): Tôi xin có một câu hỏi đối với đồng chí Viện trưởng. Để nâng cao chất lượng kiểm sát xét xử các vụ án, bảo đảm việc giải quyết đúng quy định của pháp luật, kịp thời phát hiện và khắc phục những sai sót, tránh oan sai, công tác thụ lý giải quyết đơn khiếu nại tố cáo và đặc biệt là đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm giữ vai trò rất quan trọng.
Đối với đơn khiếu nại, tố cáo, Viện Kiểm sát Nhân dân giải quyết đạt tỷ lệ cao. Tuy nhiên, công tác giải quyết đơn khiếu nại đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện Kiểm sát Nhân dân còn nhiều bất cập.
Mỗi năm Viện Kiểm sát Nhân dân các cấp thụ lý hàng chục nghìn đơn đề nghị Giám đốc thẩm, tái thẩm, nhưng tỷ lệ giải quyết thấp. Trong năm 2012, tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với án hình sự của Viện Kiểm sát đạt 34% trên tổng số đơn thụ lý, đối với dân sự thì chỉ đạt 26% còn đối với án hành chính thì chỉ đạt chưa đến 10%. Trong những tháng đầu năm 2013, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã cố gắng, nỗ lực trong việc giải quyết đơn giám đốc thẩm, tái thẩm nhưng tình trạng tồn đọng đơn rất lớn. Từ thực trạng này, đề nghị đồng chí Viện trưởng cho biết nguyên nhân của tình trạng này và ngành kiểm sát đã có giải pháp gì để khắc phục tình trạng tồn đọng trong việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm? Ngành kiểm sát đã có giải pháp gì để đảm bảo nâng cao chất lượng của việc giải quyết đơn, nhất là đối với các vụ việc Viện Kiểm sát ra văn bản thông báo không có căn cứ kháng nghị?
Đại biểu Trần Thị Dung (đoàn Điện Biên): Theo báo cáo của ngành kiểm sát năm 2012 đã hủy 236 quyết định khởi tố bị can không có căn cứ, trái pháp luật. Theo báo cáo 6 tháng đầu năm, qua kiểm sát đã hủy 93 quyết định khởi tố bị can không có căn cứ trái pháp luật và giảm 31,6%. Đọc con số này tôi rất mừng, nhưng tôi xin hỏi đồng chí Viện trưởng là với trọng trách của người đứng đầu, Viện trưởng và ngành kiểm sát có đặt ra những mục tiêu quyết tâm phấn đấu làm cho con số này năm sau giảm hơn năm trước và giảm càng nhiều càng tốt, để hạn chế mức thấp nhất những trường hợp như em Hào Anh ở Cà Mau khi vết thương thể xác chưa lành thì vết thương tâm hồn lại rỉ máu, đau lòng hơn là cả hai vết thương này đến với Hào Anh khi em chưa tròn 18 tuổi. Câu hỏi này tôi cũng xin được gửi tới Bộ trưởng Bộ Công an.
Câu thứ hai, qua khảo sát, giám sát, các báo cáo thẩm tra, báo cáo công tác cuối năm của Chính phủ, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Tòa án Nhân dân Tối cao thấy tình trạng lạm dụng Khoản 1, Điều 25 Bộ luật Hình sự để đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can thiếu căn cứ, dẫn đến hợp lý hóa việc bắt giam, phê chuẩn sai hoặc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Với chức năng kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, Viện Kiểm sát đã kịp thời phát hiện, kháng nghị những vụ việc này chưa, trong đó có cả trách nhiệm của Viện Kiểm sát khi ra các quyết định đình chỉ, phê chuẩn quyết định của cơ quan điều tra?
Đại biểu Hà Công Long (đoàn Gia Lai): Để Viện Kiểm sát Nhân dân làm tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, năm 2001 khi sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đã quyết định Viện Kiểm sát Nhân dân thôi không thực hiện chức năng kiểm sát chung. Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, Viện Kiểm sát Nhân dân được giao nghiên cứu, xây dựng đề án chuyển Viện Kiểm sát Nhân dân thành Viện Công tố. Tuy nhiên, theo Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 mà Quốc hội vừa thảo luận thì Viện Kiểm sát Nhân dân vẫn là Viện Kiểm sát Nhân dân và Viện Kiểm sát Nhân dân không phải cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Chính vì vậy, cho nên có rất nhiều ý kiến khác nhau về vị trí, vai trò của Viện Kiểm sát Nhân dân trong bộ máy Nhà nước. Xin đồng chí Viện trưởng cho biết việc xây dựng đề án chuyển Viện Kiểm sát Nhân dân thành Viện Công tố đã thực hiện đến đâu, kết quả ra sao, được vận dụng để nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như thế nào theo yêu cầu của Quốc hội tại Nghị quyết 37 ngày 23/11/2012 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật về tội phạm, công tác của Viện Kiểm sát Nhân dân, của tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2003?
Đại biểu Đỗ Văn Đương (TP. Hồ Chí Minh): Làm điều oan cho một con người đó là điều hệ trọng, cho dù có 1% chứng cứ vô tội cũng không thể truy tố và kết án nhưng vụ án Vườn Mít ở tỉnh Bình Dương 10 năm đã trôi qua, nay là vườn cao su tốt ngập đầu người, mới đây các cơ quan tố tụng vẫn còn đi kiểm tra hiện trường. Xin hỏi trách nhiệm chống oan trong vụ án này của 3 ngành Tư pháp thời gian tới đối với vụ án này khi nào kết thúc?
Thứ hai, tại kỳ chất vấn này đề nghị đồng chí Viện trưởng nói rõ trước cử tri cả nước về tình hình tiêu cực bao che, chạy án trong hoạt động tư pháp có nghiêm trọng không, có phức tạp không. Cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao theo thẩm quyền đã đóng góp vai trò như thế nào trong thời gian vừa qua. Cuối cùng có thể thấy thực hành quyền công tố hiện nay của Viện Kiểm sát do cơ chế pháp luật hiện hành chỉ trong lĩnh vực tư pháp. Công tố là quyền Nhà nước đưa người phạm tội ra tòa nhưng chỉ trong khuôn khổ những gì cơ quan điều tra và chủ yếu là cơ quan điều tra của Bộ Công an chuyển sang thôi. Tội phạm trong lĩnh vực hành chính kinh tế kia mới là điều nhân dân cả nước rất quan tâm. Ở đây để thực hành tốt, có hiệu quả, bảo đảm được an ninh trật tự và chống tham nhũng tốt. Kính đề nghị đồng chí Viện trưởng cho biết đồng chí có kiến nghị gì về sửa đổi chức năng, nhiệm vụ của Viện Kiểm sát Nhân dân, trước hết là trong Hiến pháp, sau đó các luật lệ về tố tụng tư pháp?
Đại biểu Bùi Văn Xuyền (đoàn Thái Bình): Tôi có hai câu hỏi xin gửi đến Viện trưởng như sau. Câu hỏi thứ nhất của tôi cũng trùng với câu hỏi của đại biểu Nguyễn Mạnh Cường ở Quảng Bình về nội dung đơn thư về giám đốc thẩm, tái thẩm. Qua báo cáo của Viện Kiểm sát cũng như Tòa án Nhân dân Tối cao, hằng năm giải quyết đơn thư về giám đốc thẩm, tái thẩm tăng rất cao, đại biểu Cường đã đặt vấn đề này rồi.
Tôi có một ý đặt vấn đề thêm là trong số đơn thư ấy có rất nhiều việc lợi dụng vào quy định này của Luật Tố tụng để cố tình kéo dài việc thi hành án, trì hoãn việc thi hành án, gây bức xúc cho bên thi hành án và gây khó khăn cho cơ quan chức năng. Thực tiễn việc này có rất nhiều, cho nên muốn xin ý kiến của Viện trưởng nói rõ thêm ý này.
Ý thứ hai, liên quan đến công tác thi hành án, thực tiễn khi tổ chức thi hành án, hiện nay công tác thi hành án dân sự cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi tổ chức thi hành án thì đương sự chống đối rất quyết liệt và cũng nhiều đương sự tỏ thái độ rất công khai chống đối nhưng việc kiểm sát, báo cáo của kiểm sát về công tác thi hành án dân sự, tôi thấy chưa nói đến việc xem xét trách nhiệm của đương sự trong việc tổ chức thi hành án, việc chấp hành thi hành án. Đặc biệt điều tra, khởi tố, truy tố đưa ra xét xử những hành vi không chấp hành bản án theo quy định Bộ Luật Hình sự là rất hạn chế và có lẽ hầu như chưa thực hiện được. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc không chấp hành nghiêm túc quy định của pháp luật đối với bản án.
Đại biểu Đỗ Thị Thu Hằng (đoàn Đồng Nai): Với thực trạng lực lượng kiểm sát viên đang thiếu như hiện nay, việc thành lập Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội là cơ sở giáo dục đại học công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân trực thuộc Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao theo Quyết định số 614 QĐ-TTg ngày 24/4/2013 của Thủ tướng là một giải pháp đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn giúp ngành kiểm sát khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân sự và nâng cao tính chủ động của ngành. Vậy xin Viện trưởng cho biết quy mô đào tạo của trường và nhu cầu tuyển dụng đội ngũ kiểm sát viên hằng năm. Bởi vì theo tôi được biết hiện nay với kiến thức mềm của sinh viên các trường đại học ngành luật trên cả nước cũng từng bước có thể đáp ứng được nhu cầu nhân lực của ngành. Như vậy, về lâu dài thì việc giải quyết đầu ra của sinh viên Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội có đảm bảo sẽ được bố trí công việc phù hợp với kiến thức chuyên ngành kiểm sát được đào tạo không? Viện trưởng có giải pháp nào để giải quyết vấn đề này?
Viện trưởng Nguyễn Hòa Bình: Về câu hỏi của đại biểu Nguyễn Mạnh Cường đơn giám đốc thẩm, tái thẩm rất nhiều, cũng liên quan đến câu hỏi của đại biểu Bùi Văn Xuyền, đoàn Thái Bình.
Theo quy định của luật thì chúng ta chỉ có 2 cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm, còn tái thẩm và giám đốc thẩm thì không phải là cấp xét xử. Tuy nhiên, chúng ta đang bị rơi vào tình trạng quá tải ở lĩnh vực giám đốc thẩm và tái thẩm dẫn đến tình hình phúc thẩm xong rồi thì tiếp tục đơn như đại biểu Xuyền nói là để trì hoãn, để kéo dài thời gian thi hành án. Giám đốc thẩm và tái thẩm là thủ tục đặc biệt và trong điều kiện đặc biệt thì mới làm, có quy định của luật. Nhưng chúng ta lúc nào cũng đơn đi hết, cho nên tạo áp lực cho các cơ quan tối cao, kể cả Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cũng như Tòa án Nhân dân Tối cao. Việc này nếu nhiều như thế, đối với các nước thì 1 năm họ chỉ có vài chục vụ, còn chúng ta cả chục ngàn, cho nên tỷ lệ giải quyết thế này cũng là một cố gắng rất lớn. Tuy nhiên, trong trả lời của Viện Kiểm sát về kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm thì chúng tôi cũng trả lời là không đủ điều kiện để kháng nghị, vì nó không phải là đặc biệt, báo cáo với đại biểu như vậy và tỷ lệ trả lời này rất cao, chứ nếu không cứ vụ nào cũng kháng nghị thì rất khó, không tuân thủ đúng pháp luật, không đúng là trình tự đặc biệt.
Câu hỏi của đại biểu Trần Thị Dung, đoàn Điện Biên, tỷ lệ hủy các bản án hình sự không có căn cứ, là do tăng cường kiểm sát các hoạt động điều tra ngay từ đầu, cho nên chúng tôi hủy số án không có căn cứ ngày càng nhiều. Việc này rất mừng là được đại biểu đánh giá cao. Mong muốn của chúng tôi sẽ không phải hủy nữa vì đã khởi tố là đúng. Chúng tôi mong muốn 100% là khởi tố đúng. Đại biểu cũng đã đặt ra yêu cầu là như vậy. Nhưng trên thực tế cũng sẽ khó đạt được điều này. Chỉ tiêu do Nghị quyết 37 mà Quốc hội giao thì cũng không đặt ra việc đã khởi tố là đúng.
Thực tế trong quá trình điều tra, truy tố, thì khởi tố không có nghĩa là có tội. Quyết định cuối cùng là của Tòa. Hiến pháp cũ, Hiến pháp năm 1992 cũng như Hiến pháp sửa đổi đều ghi nhận chuyện này. Quá trình khởi tố là quá trình điều tra. Chúng tôi cũng sẽ tăng cường kiểm sát để làm sao hạn chế thấp nhất, mà nếu được 100% là tốt. Nhưng cái này là khó để không có các vụ án khởi tố mà sau đó phải hủy vì không có căn cứ.
Về lạm dụng Khoản 1, Điều 25, để đình chỉ, miễn trách nhiệm hình sự, báo cáo với đại biểu là chúng ta đã có một điều khoản về Điều 25 là đình chỉ vụ án thì số lượng đình chỉ khá là nhiều, thậm chí có trường hợp lạm dụng điều này như đại biểu đã nói để mà né phải bồi thường. Chúng tôi cũng đã nhận ra tình trạng như vậy và cũng đã xây dựng Thông tư ký kết cùng với Bộ Công an, với Tòa án để hướng dẫn các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng điều này cho tốt.
Tuy nhiên, cũng có một thực tế qua tổng hợp tất cả các trường hợp đình chỉ theo Điều 25 thì cũng thấy có rất nhiều trường hợp là luật không bao trùm được hết, bất cập, không bao gồm được tất cả các trường hợp phải đình chỉ, ví dụ như trường hợp vụ án Nông trường Sông Hậu chúng tôi cũng vận dụng điều này để đình chỉ. Nhưng nếu như thực sự đúng quy định của Điều 25 nó cũng chưa phải toàn vẹn lắm, định hướng của chúng tôi là khi sơ hở Bộ Luật Tố tụng hình sự thì Điều 25 phải sửa. Đấy là một trong những kiến nghị rất quan trọng của chúng tôi và không phải chỉ có chúng tôi mà của cả cơ quan điều tra, đình chỉ theo Điều 25 của công an theo tỷ lệ gấp 3 lần của Viện Kiểm sát. Trong điều kiện nhiều lý do về đình chỉ trong đó có việc tội phạm chạy v.v... rất nhiều, vấn đề này chúng tôi đã có thông tư để hướng dẫn nhưng đồng thời cái gốc vẫn là phải sửa Điều 25 này.
Ý kiến của đại biểu Hà Công Long, Viện Kiểm sát được Bộ Chính trị giao cho, qua Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, giao cho chúng tôi nghiên cứu đề án, nghiên cứu việc chuyển Viện Kiểm sát thành Viện Công tố. Chúng tôi đã hoàn thành đề án này và đề án đã có quá trình nghiên cứu rất nghiêm túc, có sự tham gia của tất cả các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm thế giới thì kết quả, kết luận của đề án là không chuyển thành Viện Công tố mà giữ nguyên Viện Kiểm sát như hiện nay là một chế định độc lập do Quốc hội bầu thực hiện hai chức năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đề án này đã được chuyển thành phần dự thảo trong Hiến pháp mà chúng ta đang thảo luận sắp sửa thông qua. Theo đó Điều 112 ghi rõ là Viện Kiểm sát nằm trong chương của toà và thực hiện hai chức năng.
Còn có phải cơ quan tư pháp hay không? Rất nhiều đại biểu khi thảo luận về Hiến pháp đề nghị khẳng định địa vị pháp lý của Viện Kiểm sát là cơ quan tư pháp. Việc này phù hợp với truyền thống pháp lý, và các quy định pháp lý lâu nay của chúng ta. Bởi vì Viện Kiểm sát từ năm 1946 khi chúng tôi ra đời trong Hiến pháp 1946 cũng đã khẳng định đấy là cơ quan tư pháp. Trong các nghị quyết của Đảng thì cải cách tư pháp là chúng ta cải cách từ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án chứ không phải chỉ có cải cách theo nghĩa hẹp là chỉ có cải cách ở toà. Viện Kiểm sát có chức năng kiểm sát tư pháp là cũng kiểm sát từ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án chứ không phải chỉ có kiểm sát toà. Cho nên theo nghĩa đây là cơ quan tư pháp. Còn quá trình thảo luận, có nhiều đại biểu đề nghị phải trao lại việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật cho ngành kiểm sát, điều này cũng phù hợp với khuyến cáo của Hiệp hội các công tố viên, kiểm sát viên thế giới là kiểm sát phải hoạt động ngoài lĩnh vực hình sự. Cũng có ý kiến đề nghị trao thêm cho cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát điều tra tội phạm tham nhũng, vấn đề này đang là ý kiến thảo luận trong quá trình nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp, quyền quyết định là của Quốc hội, nếu Quốc hội giao thì chúng tôi đảm nhận.
Đại biểu Đỗ Văn Đương quan tâm tới vụ án Lê Bá Mai, vụ Vườn Mít, đây là vụ án cụ thể chúng tôi sẽ trả lời sau cho đỡ mất thời gian của Quốc hội. Nhưng xin báo cáo đại biểu, trách nhiệm của chúng tôi hiện nay tòa đang thụ lý hồ sơ, đầu tháng 5 đã mời một phiên họp nhưng luật sư xin hoãn và cuối tháng 5 cũng mời một phiên nhưng Viện Kiểm sát thấy vấn đề nghiêm trọng, nhiều người quan tâm, tại kỳ họp này rất nhiều đại biểu gửi thư cho tôi, các báo cũng nói xót xa, Lê Bá Mai bây giờ ốm đau v.v... Nhưng cũng có khía cạnh khác, chúng ta xót xa cho Lê Bá Mai thì ai xót xa cho gia đình có con gái mới lớn bị hiếp và giết. Chúng tôi hứa ngay sau phiên họp này tuần tới chúng tôi sẽ họp liên ngành, đề nghị cả cơ quan điều tra, Bộ Công an cùng cơ quan điều tra địa phương, cơ quan công tố địa phương họp và Ủy ban kiểm sát sẽ có đánh giá trước khi phiên tòa phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra. Bây giờ không có cách nào khác là phải dựa vào pháp luật.
Về tiêu cực trong ngành tư pháp và vai trò của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, báo cáo đại biểu là thời gian vừa qua Quốc hội giao cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát điều tra các vụ án vi phạm trong hoạt động tư pháp, do cán bộ tư pháp gây ra. Trong 3 năm gần đây, từ 2010 đến nay, số lượng vụ án do cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát thi hành tăng dần qua các năm, có năm tăng 200%, trong số đó có đến 62% số vụ và 54% về số bị can phạm tội tham nhũng với các tội danh khác nhau, ví dụ lạm dụng chức vụ, quyền hạn, nhận hối lộ, chiếm đoạt v.v... như vậy hoạt động của cơ quan điều tra này rất có hiệu quả. Với chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp từ nhận tin báo tội phạm cho tới điều tra, truy tố, xét xử thì Viện Kiểm sát là cơ quan có khả năng phát hiện ra những sai phạm ở mỗi giai đoạn tố tụng, cho nên nếu phát hiện là sai phạm nghiêm trọng cũng là điều đáng tiếc, lẽ ra nó không xảy ra nhưng đã xảy ra thì chúng tôi khởi tố và xử lý nghiêm. Với hoạt động như vậy đã có đóng góp rất tích cực trong việc giữ nghiêm kỷ cương, tuân thủ pháp luật và xây dựng cơ quan tư pháp trong sạch.
Về câu hỏi có đề nghị gì với Quốc hội về chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát hay không, tôi nghĩ ý kiến của các đại biểu trong diễn đàn của Quốc hội khi thảo luận Hiến pháp đã quá nhiều, trên cơ sở đó đề nghị Quốc hội thảo luận.
Về Trường Đại học Kiểm sát, báo cáo Quốc hội chúng tôi xem đây như một giải pháp rất căn cơ để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của ngành, đại biểu có quan tâm đến đầu vào, đầu ra của toàn ngành. Theo như Quốc hội cho định biên của chúng tôi toàn ngành là khoảng 15.000 người, chưa kể số lượng tăng thêm do yêu cầu công việc thì số nghỉ tự nhiên hằng năm là khoảng 4,9%, như vậy số nghỉ khoảng 800 người. Quy mô đào tạo của chúng tôi ở trường đại học hiện nay do Chính phủ cho phép, năm tới chúng tôi định đào tạo 200, sắp tới nâng lên là 400, như vậy bù đắp với hao hụt tự nhiên chúng tôi còn thiếu khoảng 400 nữa, nguồn là từ các cơ sở đào tạo pháp luật ngoài ngành. Tuy nhiên, có một điều rất khó là tại sao sinh viên trường Luật hiện nay không về ngành kiểm sát, không lấy từ đó. Báo cáo với Quốc hội, sinh viên trường Luật ra chúng tôi cũng tích cực mời gọi, nhưng không tuyển được. Phần lớn họ đi vào nhu cầu khác, còn lựa chọn cho ngành kiểm sát họ cũng thích Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh trung tâm đô thị hơn, chứ lên vùng sâu, vùng xa cũng rất khó. Nếu không chủ động, đặc biệt Tây Bắc, Tây Nam Bộ, Tây Nguyên trong thời gian dài thiếu người cho nên giải pháp khắc phục hẫng hụt về đội ngũ cán bộ cho vùng sâu, vùng xa đặt ra rất gay gắt, cho nên bên cạnh việc lấy từ các trường đại học chúng tôi vẫn phải chủ động nguồn này.
Chất lượng đào tạo, đây không phải nghề lý thuyết cơ bản mà chủ yếu là kỹ năng thực hành. Cho nên đào tạo các kiểm sát viên kinh nghiệm cho thấy tốt hơn rất nhiều. Với trường đại học của chúng tôi có điều kiện để cho các kiểm sát viên, giống như trường y, các bác sĩ ở các bệnh viện, vào đấy giảng dạy, như thế có thể trao đổi kinh nghiệm với nhau, cập nhật kiến thức tốt hơn.
(Nguồn: Biên bản ghi âm phiên chất vấn chiều 14/6 của Văn phòng Quốc hội)