Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
|
Phát triển kinh tế đã và đang trở thành nguy cơ phát sinh nguồn ô nhiễm, có khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ tới môi trường vùng Vịnh Hạ Long – Bái Tử Long khi việc kiểm soát nguồn thảo của địa phương hiện nay chưa thật sự hiệu quả.
70% kim loại nặng đổ vào Vịnh là của... ngành than
Theo kết quả điều tra của chuyên đề "Đánh giá dự báo tải lượng ô nhiễm đưa vào Vịnh Hạ Long - Bái Tử Long" do Viện Tài nguyên và Môi trường Biển thực hiện cho thấy, việc quản lý, kiểm soát các nguồn ô nhiễm (đặc biệt là ngành than) chưa hiệu quả. Hầu hết các nguồn ô nhiễm chưa được xử lý khi thải ra môi trường. Các chất ô nhiễm vào Vịnh Hạ Long - Bái Tử Long thường theo hai đường chính là do rửa trôi các nguồn ô nhiễm trên đất liền qua hệ thống sông, suối, lạch, triều đưa ra Vịnh và đổ trực tiếp từ nguồn nước sinh hoạt của dân cư ven biển, khách du lịch, nuôi trồng thủy sản...
Theo số liệu quan trắc, với tốt độ xả thải như hiện nay, mỗi năm Vịnh Hạ Long - Bái Tử Long phải hứng chịu khoảng 43 nghìn tấn COD và 9 nghìn tấn BOD (chất hữu cơ lơ lửng) đổ vào Vịnh. Khoảng 5,6 nghìn tấn Nitơ - tổng số (N –T) và gần 2 nghìn tấn Phốt pho tổng số (P – T). Đặc biệt, có khoảng 135 nghìn tấn kim loại nặng và khoảng 777,5 nghìn tấn TSS (chất rắn lơ lửng) hàng năm từ nguồn thải ven biển đổ vào Vịnh, là mối đe dọa lớn tới môi trường vùng Vịnh. Kết quả điều tra trong nhiều năm cho thấy, hàm lượng ô nhiễm kim loại nặng đưa vào Vịnh chủ yếu từ hoạt động khai thác than ở Cẩm Phả (chiếm tới 70% tổng lượng vào) và thành phố Hạ Long. Còncác chất hữu cơ và dinh dưỡngđưa vào vùng Vịnh có xuất phát điểm từkhu vực thành phố Hạ Longlà nhiều nhất (khoảng 30 - 60%), tiếp theo là Hoàng Bồ, Cẩm Phả và Vân Đồn.
Cần quản chặt nguồn thải …
Với tốc độ xả thải ô nhiễm hiện nay, các chuyên gia môi trường ước tính đến năm 2020, hầu hết các chất ô nhiễm phát sinh trong khu vực sẽ tăng từ 1,2 – 2,3 lần so với hiện nay. Con số dự báo cụ thể về mức độ ô nhiễm là đến năm 2020, khu vực ven biển mỗi năm phát sinh khoảng 116 nghìn tấn COD, 59 nghìn tấn BOD, 12.8 nghìn tấnN –T, 4,7 nghìn tấn P – T, hơn 300 tấn kim loại nặng các loại và TSS. Tương ứng với lượng chất ô nhiễm phát sinh, vùng Vịnh mỗi năm sẽ phải tiếp nhận khoảng37,7 nghìn tấn COD, 5,23 nghìn tấn BOD, 5,2 nghìn tấn N –T, 2,7 nghìn tấn P –T và tải lượng kim loại nặng lên tới 106 nghìn tấn.
Song tải lượng các chất ô nhiễm đưa vào vùng Vịnh tới năm 2020 phụ thuộc vào tình trạng quản lý và xử lý các nguồn thải, khả năng đầu tư đổi mới công nghệ, xây dựng hệ thống thu gom, xử lý chất thải và tỷ lệ rửa trôi các nguồn ô nhiễm trong từng khu vực. Chính vì vậy, để bảo vệ môi trường nước Vịnh Hạ Long – Bái Tử Long ngay từ bây giờ, cần thiết phải đưa vào quy hoạch bảo vệ môi trường vùng cần được nghiên cứu, chú trọng đầu tư các công trình xử lý nước thải (có thể dùng các biện pháp xử lý đơn giản, ít tốn kém như lắng sơ cấp, bổ tự hoại, bùn hoạt tính…). Đặc biệt, cần quản lý chặt và tăng cường các biện pháp xử lý chất thải tại nguồn, hạn chế xả thải không đạt chuẩn hoặc chưa qua xử lý ra môi trường. Chú trọng các giải pháp công nghệ và tăng cường kiểm soát việc tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường hơn và hạn chế các hoạt động phát triển. Có như vậy mới bảo vệ được một Di sản thiên nhiên thế giới mãi xanh – sạch – đẹp, góp phần thúc đẩy nền “công nghiệp không khói” của Quảng Ninh phát triển bền vững.
Kim Liên