• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Xếp lương đối với sĩ quan chuyển ngành

(Chinhphu.vn) - Ông Lê Trọng Bằng (anbinh_hce@...) là bác sĩ quân y, chuyển ngành về công tác tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Thanh Hóa từ tháng 10/2001 với quân hàm Đại úy; hưởng lương hệ số 4,15. Khi chuyển ngành ông Bằng được xếp lương theo hệ thống lương hành chính sự nghiệp, hệ số 2,88; thời điểm nâng lương lần sau từ tháng 9/2001.

21/05/2012 13:25

Ông Bằng muốn biết, thời điểm đó lương của ông xếp như vậy có đúng quy định không? Nếu chưa đúng, bây giờ có thể tính lại quyền lợi được không?

Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội trả lời vấn đề ông Bằng hỏi như sau:

Ngày 19/6/2001 liên Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư Liên tịch số 1699/2001/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 04/2001/NĐ-CP ngày 16/1/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 về chế độ chính sách đối với sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ; sĩ quan chuyển sang quân nhân chuyên nghiệp (QNCN) hoặc chuyển sang công chức quốc phòng. Văn bản này có hiệu lực từ ngày 1/4/2000 và đã hết hiệu lực từ ngày 4/9/2009.

Chính sách đối với sĩ quan chuyển ngành

Mục II, Phần B Thông tư liên tịch số 1699 nêu trên quy định về chính sách đối với sĩ quan, QNCN chuyển ngành sang làm việc trong biên chế tại các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước. Các quyền lợi được hưởng như sau:

- Ưu tiên trong thi tuyển: Sĩ quan, QNCN chuyển ngành được miễn thi tuyển, gồm sĩ quan, QNCN nguyên là cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước được chuyển về cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp Nhà nước đã công tác trước khi nhập ngũ; Sĩ quan, QNCN chuyển ngành theo yêu cầu của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp được sắp xếp làm đúng ngành nghề chuyên môn, nghiệp vụ đào tạo.

- Ưu tiên điểm trong thi tuyển: Sĩ quan, QNCN khi chuyển ngành nếu phải qua thi tuyển công chức vào làm việc trong biên chế tại cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hưởng lương từ ngân sách Nhà nước được ưu tiên cộng thêm 2,5 điểm vào kết quả thi để xét tuyển dụng.

- Về xếp lương: Sĩ quan, QNCN chuyển ngành được xếp và hưởng lương theo công việc mới, chức vụ mới kể từ ngày có quyết định chuyển ngành. Trường hợp hệ số mức lương ngạch, bậc mới (kể cả hệ số mức lương được nâng lương sau chuyển ngành) thấp hơn hệ số mức lương sĩ quan, QNCN tại thời điểm chuyển ngành thì được bảo lưu hệ số chênh lệch giữa hệ số mức lương sĩ quan, QNCN với hệ số mức lương mới. Thời gian bảo lưu tối thiểu là 18 tháng kể từ khi có quyết định chuyển ngành.

Trong thời gian bảo lưu lương, nếu sĩ quan, QNCN chuyển ngành được nâng hệ số mức lương mới bằng hoặc cao hơn hệ số mức lương sĩ quan, QNCN tại thời điểm chuyển ngành thì sĩ quan, QNCN đó được hưởng lương theo hệ số mức lương mới kể từ ngày được nâng lương và thôi hưởng hệ số chênh lệch bảo lưu.

Trường hợp ông Lê Trọng Bằng là bác sĩ quân y, công tác tại E48 F320 Quân đoàn 3 chuyển ngành về công tác tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Thanh Hóa từ tháng 10/2001 với quân hàm đại úy hệ số lương là 4,15; được Bệnh viện xếp lương viên chức hệ số 2,88 (theo Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ quy định tạm thời chế độ tiền lương của công chức, viên chức hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang).

Thời điểm ông Bằng chuyển ngành, việc xếp lương sĩ quan chuyển ngành được áp dụng quy định tại Mục II, Phần B Thông tư Liên tịch số 1699/2001/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC nêu trên, theo đó ông Bằng được xếp và hưởng lương theo công việc mới từ ngày có quyết định chuyển ngành. Tuy nhiên, do hệ số mức lương ngạch, bậc mới (2,88) thấp hơn hệ số mức lương đại úy (4,15) tại thời điểm chuyển ngành, nên ông Bằng được bảo lưu hệ số chênh lệch giữa hệ số mức lương đại úy với hệ số mức lương mới. Thời gian bảo lưu tối thiểu là 18 tháng kể từ khi có quyết định chuyển ngành. Hệ số chênh lệch bảo lưu lương của ông Bằng là 4,15 - 2,88 = 1,27. Thời gian bảo lưu đến hết tháng 2/2003.

Nếu sự việc đúng như ông Bằng trình bày thì ông chưa được hưởng hệ số chênh lệch bảo lưu 1,27 trong thời gian 18 tháng. Thời điểm ông Bằng chuyển ngành đã qua 11 năm, có thể lúc đó ông chưa tìm hiểu chính sách hoặc biết chính sách nhưng không có ý kiến yêu cầu bệnh viện thực hiện đúng quy định, nên đã có thiệt thòi về quyền lợi.

Từ năm 2005, chế độ tiền lương trước đây theo Nghị định 25/CP ngày 23/5/1993 đã được chuyển xếp theo chế độ tiền lương tại Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004. Diễn biến tiền lương của ông Bằng đã có thay đổi qua thời gian công tác, quỹ tiền lương của đơn vị thì được xét duyệt phân bổ hàng năm theo chỉ tiêu biên chế, hơn nữa thời hiệu khiếu nại đã hết, theo luật sư việc đề nghị xem xét lại chế độ tiền lương của ông Bằng khi chuyển ngành năm 2001 và truy lĩnh hệ số chênh lệch bảo lưu lương khó thực hiện được.

Luật sư Trần Văn Toàn

VPLS Khánh Hưng – Đoàn Luật sư Hà Nội

* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.