Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
|
Ngày 21/6/2010, Tòa án Nhân dân TP. Đà Lạt đã có bản án số. 02/2010/HC-ST xét xử vụ việc ông Thái Bình Dương kiện Quyết định số 195/QĐ-UBND ngày 10/7/2009 của Chủ tịch UBND phường 10, cưỡng chế công trình vi phạm trật tự đô thị tại lô A1, khoảnh 8, tiểu khu 156, khu phố 2, phường 10 (ngôi nhà gỗ của ông Dương tạo lập và sinh sống từ năm 1995 đến 2009). Bản án đã tuyên gần 1 năm qua nhưng còn có nhiều điều dư luận quan tâm về tính “thượng tôn pháp luật”.
Theo trình bày của ông Dương: Năm 1995, cha ông là Thái Văn Châu, cũng là cha đẻ của Liệt sỹ Thái Kim Đăng (anh ruột ông Dương) qua đời, gia đình ông Dương đã làm đơn xin được chôn cất cha mình tại khu vực đồi Tương Sơn, nơi đặt mộ phần Nữ sỹ Tương Phố (thân mẫu ông Thái Văn Châu, bà nội của ông Dương). Chính quyền phường 10 đã đồng ý cho gia đình ông Dương cất lán trại để xây mộ ông Thái Văn Châu và tiện bề trông coi mộ phần Nữ sỹ Tương Phố. Khi chấp thuận, chính quyền phường 10 có yêu cầu khi nào xây dựng xong mộ phần thì phải tháo dỡ lán trại. Tuy nhiên, do gặp khó khăn về nơi ở, nên sau khi xây dựng xong mộ phần cho cha và bà nội, ông Dương vẫn tiếp tục sống trong ngôi nhà gỗ dựng tạm từ năm 1995 cho đến thời điểm UBND tỉnh Lâm Đồng cấp hơn 34ha rừng cho Cty TNHH Tam Hà (năm 2007) làm chủ đầu tư dự án Khu du lịch sinh thái Tam Hà, trong đó bao trùm lên toàn bộ khu tưởng niệm Nữ sỹ Tương Phố.
Lập biên bản “ma” để cưỡng chế
Ngày 22/6/2009, UBND phường 10 gửi giấy mời số 37/GM-UB mời ông Dương đến UBND phường 10 họp về việc xây nhà trái phép trên đất rừng của ông. Tuy nhiên, địa chỉ mà UBND phường 10 gửi giấy mời cho ông Dương là “14A Hoàng Diệu P5” – một địa chỉ “ma”, không có thật(!?).
Ngày 25/6/2009, UBND phường 10 lập một biên bản đình chỉ việc thi công công trình của chủ hộ Thái Bình Dương. Biên bản này không có số, không đóng dấu của chính quyền, không có chữ ký của những người có liên quan (đương sự, người làm chứng, người lập biên bản…).
Ngày 6/7/2009, căn cứ vào biên bản “ma” nêu trên, UBND phường 10 ra Quyết định số 194/QĐ-UBND đình chỉ công trình vi phạm trật tự xây dựng đô thị của ông Dương. Ngày 8/7/2009, ông Dương làm đơn khiếu nại Quyết định 194, vì theo ông Dương, ngày 25/6/2009, ông không hề có bất cứ một hành động xây dựng trái phép nào như biên bản “ma” của UBND phường 10 đã lập.
Tiếp tục căn cứ biên bản “ma”, ngày 10/7/2009, UBND phường 10 tiếp tục ra Quyết định số 195/QĐ-UB cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm đối với ông Dương. Ngày 13/7/2009, ông Dương làm đơn khiếu nại Quyết định số 195 của UBND phường 10, với lý do: Theo Khoản 1, Điều 66, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, thì quyết định cưỡng chế chỉ được ban hành khi “tổ chức, cá nhân đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt”. Trong khi trước đó, ông Dương chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị lập biên bản vi phạm. Ông Dương cho rằng, quyết định cưỡng chế còn sai đối tượng, bởi căn nhà gỗ của Dương được cất năm 1995 chứ không phải là mới xây dựng tháng 11/2007 như Quyết định số 194 nêu.
Ông Dương khiếu nại tới nhiều cấp. Ngày 24/8/2009, Văn phòng Chính phủ có Văn bản số 5772/VPCP-KTN, thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng báo cáo Thủ tướng việc thực hiện dự án Khu nghỉ dưỡng sinh thái du lịch tại vị trí đất rừng phòng hộthuộc Tiểu khu 156, phường 10, TP. Đà Lạt do Cty TNHH Tam Hà làm chủ đầu tư và việc Cty Tam Hà chặt hạ 855 cây thông để lấy mặt bằng xây dựng; đồng thời chỉ đạo kiểm tra, giải quyết khiếu nại của ông Dương theo đúng quy định của pháp luật, báo cáo kết quả lên Thủ tướng Chính phủ trong tháng 9/2009. Không chờ kết quả kiểm tra để báo cáo Thủ tướng; ngày 15/9/2009, UBND phường 10 đã vội vàng cưỡng chế đập nhà của ông Dương mà không có biên bản xử lý vi phạm, không kiểm kê tài sản như đã nêu.
Thấy gì qua một bản ánSự việc là vậy, nhưng Bản án số 02/2010/HC-ST nhận định: “…mặc dù biên bản không có đóng dấu nhưng nội dung biên bản đã thể hiện rõ nội dung vi phạm của ông Dương, có sự chứng kiến của cơ quan có thẩm quyền nên việc khiếu nại của ông Dương là không có cơ sở xem xét”. Từ đó, bác đơn khởi kiện của ông Dương về việc đề nghị hủy Quyết định số 195 của UBND phường 10.
Cần lưu ý: Điều 55Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (ngày 2/4/2008) quy định rất rõ tại Khoản 1 và Khoản 2: “Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản, trừ trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản…Trong biên bản về vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp người vi phạm hoặc tên, địa chỉ tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử phạt (nếu có); tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ (nếu có); lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời khai của họ. Trong trường hợp người vi phạm hành chính cố tình trốn tránh hoặc vì lý do khách quan mà không có mặt tại địa điểm xảy ra vi phạm thì biên bản được lập xong phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người chứng kiến”.
Khoản 3, Điều 55 của Pháp lệnh còn quy định cụ thể: “Biên bản phải được lập thành ít nhất hai bản; phải được người lập biên bản và người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì họ cùng phải ký vào biên bản; trong trường hợp biên bản gồm nhiều tờ, thì những người được quy định tại khoản này phải ký vào từng tờ biên bản. Nếu người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại từ chối ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản”.
Nếu đối chiếu với biên bản “ma” lập ngày 25/6/2009,thì UBND phường 10 không có quyền ra quyết định xử phạt ông Dương, bởi không có biên bản vi phạm được lập theo đúng quy định của Điều 55 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Từ đó dư luận đặt câu hỏi: Tại sao phần “xét thấy” trong bản án lại bỏ qua những việc làm bất hợp pháp như thế?.
Đức Hoàng – Cầm Phong