Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Hơn 10 năm trước, năm 2013, Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã xác định rõ định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo – trong đó "tự chủ đại học" là một quyết định quan trọng, mang tính đột phá mang tính thời đại.
Năm 2014, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết 77 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập. Từ đây, khái niệm "tự chủ đại học" chính thức bước vào giai đoạn mới, triển khai các chủ trương trên thực tế.
Suốt hơn một thập kỷ qua, chúng ta đã nói rất nhiều về tự chủ – như một xu hướng tất yếu, một yêu cầu phát triển, thậm chí là một giải pháp để giáo dục đại học Việt Nam bắt nhịp với thế giới. Nhưng đến nay, phần lớn các trường vẫn loay hoay trên thực tế, có quá nhiều vướng mắc, bất cập, nhất là được trao một phần quyền, nhưng vẫn ràng buộc nhiều mặt.
Vậy chúng ta đang tự chủ thực chất hay vẫn chỉ là hình thức? Đang tháo gỡ tư duy "xin – cho" hay chỉ thay vỏ, giữ nguyên cách vận hành cũ?
Để làm rõ những câu hỏi này, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm với chủ đề "Tự chủ đại học – Cơ hội nào để phát triển?" nhằm soi chiếu từ chính những mô hình đã dấn thân đi trước, để nhận diện rõ hơn những gì vẫn còn chậm chuyển động, những thuận lợi, khó khăn, những cơ hội để phát triển hệ thống đại học.
Các vị khách mời tham dự Tọa đàm (từ phải sang): MC Minh Ngọc; PGS.TS. Hoàng Đình Phi – Hiệu trưởng Trường Quản trị và Kinh doanh (HSB), Đại học Quốc gia Hà Nội; Trung tướng GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm – Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống, Trường Quản trị và Kinh doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an; PGS.TS. Lưu Bích Ngọc – Chánh Văn phòng Hội đồng quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực; ông Võ Quang Lâm – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam - Ảnh: VGP/Dương Tuấn
Tọa đàm có sự tham dự của các vị khách mời:
Trung tướng GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm – Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống, Trường Quản trị và Kinh doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an
PGS.TS. Hoàng Đình Phi – Hiệu trưởng Trường Quản trị và Kinh doanh (HSB), Đại học Quốc gia Hà Nội
PGS.TS. Lưu Bích Ngọc – Chánh Văn phòng Hội đồng quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực
Ông Võ Quang Lâm – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
Câu hỏi đầu tiên xin được dành cho PGS.TS. Lưu Bích Ngọc. Thưa bà, nhìn lại 15 năm triển khai tự chủ đại học, vì sao một chủ trương đúng đắn như vậy lại chuyển biến chậm trong thực tế? Có phải là cách hiểu chưa đúng, cách làm chưa đủ, hay là rào cản về cơ chế cũng như là thể chế? Bà có thể điểm ra một số thuận lợi, khó khan chính của việc triển khai quyết định này!
PGS.TS. Lưu Bích Ngọc – Chánh Văn phòng Hội đồng quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực - Ảnh: VGP/Dương Tuấn
PGS.TS. Lưu Bích Ngọc: Quả thực tự chủ giáo dục đại học của Việt Nam thời gian qua đã thành một động lực để thúc đẩy phát triển hệ thống giáo dục đại học nước ta. Chúng ta cũng đã có nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên dường như trong 10 năm trở lại đây, tốc độ đi hơi chậm so với mong muốn của Đảng, Nhà nước, cũng như của xã hội. Tổng hợp lại có thể nêu 3 lý do, nguyên nhân chính.
Thứ nhất, xã hội và chính các cơ sở giáo dục đại học hiện nay ở Việt Nam trong thời gian qua đã hiểu chưa đúng về tự chủ đại học. Nhà nước ban hành chủ trương chính sách là tăng cường tự chủ đại học nhưng lại cắt đầu tư ngân sách, điều đó khiến cho tự chủ đại học đồng nghĩa với tự chủ là các cơ sở giáo dục phải tự lo.
Nguyên nhân thứ hai là tồn tại tình trạng mâu thuẫn trong quyền lực, điều hành, quản lý. Các cơ sở giáo dục đại học hiện nay còn sự chồng lấn giữa Hội đồng trường, Đảng uỷ và Ban Giám hiệu nhà trường, dẫn đến sự không hiệu quả trong điều hành nội bộ của các cơ sở giáo dục đại học.
Điểm thứ ba là cơ chế tự chủ chưa thực sự mở. Khi tự chủ, các cơ sở giáo dục đại học vẫn phải tuân thủ theo các hệ thống, văn bản pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên giữa các luật này chưa có sự thống nhất, đồng bộ, còn có sự "đâm ngang" nhau. Có thể nói tựu chung lại là sự thiếu đồng bộ về cơ chế đã khiến các cơ sở giáo dục đại học bó chân, bó tay khi thực hiện tự chủ.
Nói đến tự chủ đại học, nói đến động lực để thúc đẩy tự chủ, nói đến nguồn lực để thực hiện tự chủ và nói đến năng lực tự chủ thì trong thời gian qua chúng ta đều gặp phải một số vấn đề. Đó là những rào cản, vướng mắc mà để có thể thúc đẩy tự chủ đại học trong thời gian tới thì chúng ta phải làm rõ và có những giải pháp.
Thưa GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, ông có cho rằng tư duy quản lý truyền thống, đặc biệt là cơ chế "xin - cho", vẫn đang là một rào cản lớn đối với tiến trình tự chủ đại học hiện nay? Và theo ông, những điểm gì là mấu chốt, tiên quyết để phá vỡ rào cản đó và thực hiện tự chủ một cách thực chất?
Trung tướng GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm – Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống, Trường Quản trị và Kinh doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội - Ảnh: VGP/Dương Tuấn
GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm: Tôi cho rằng điểm rất quan trọng là chúng ta phải xác định rõ từ hai phía, thứ nhất là cơ quan quản lý được làm gì; phía nhà trường, đặc biệt là hiệu trưởng nhà trường, được làm gì.
Những năm 1990, việc cấp bằng thạc sĩ, tiến sĩ đều do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện, nhưng hiện nay tất cả quyền này, đặc biệt là đào tạo tiến sĩ, bậc học cao nhất của giáo dục đại học, đều giao cho nhà trường. Cho nên quan điểm của tôi là những gì thuộc về nhà trường, thuộc về hiệu trưởng nhà trường, thì phải trả cho họ đúng nghĩa. Còn cơ quan quản lý tập trung vào hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra, đi sâu vào quản lý.
Thực chất nếu chúng ta làm được như thế, tự chủ đại học mới đúng nghĩa và sẽ không còn cơ chế xin-cho trong điều kiện hiện nay.
Trường Quản trị và Kinh doanh – Đại học Quốc gia Hà Nội (HSB) là một trong những mô hình giáo dục đại học hiếm hoi tự chủ toàn diện suốt hơn 30 năm qua – Không nhận ngân sách nhà nước, tự quyết tổ chức và chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo. Thưa PGS.TS Hoàng Đình Phi, đâu là những yếu tố quyết định nhất giúp HSB duy trì được sự tự chủ bền vững trong suốt hành trình ấy? Những gì quan trọng nhất để làm nên thành công này của HSB?
PGS.TS. Hoàng Đình Phi – Hiệu trưởng Trường Quản trị và Kinh doanh (HSB), Đại học Quốc gia Hà Nội - Ảnh: VGP/Dương Tuấn
PGS.TS Hoàng Đình Phi: Còn hai ngày nữa Trường Quản trị và Kinh doanh (HSB) trực thuộc Đại học quốc gia Hà Nội sẽ tròn 30 tuổi. Trong 30 năm qua, có rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan làm nên lịch sử rất đặc biệt của nhà trường.
Điều đầu tiên là các thế hệ thầy trò Trường Quản trị - Kinh doanh Đại học Quốc gia Hà Nội đều đánh giá cao sự sáng tạo của Nghị quyết 29 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo Việt Nam, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là căn cứ, là nền tảng để thầy và trò vượt qua nhiều khó khăn, rào cản, để giữ được thương hiệu nhà trường, tránh bị giải thể, bị sáp nhập.
Đến ngày hôm nay, có rất nhiều cảm xúc. Đầu tiên phải nói là có Nghị quyết của Đảng thì chúng ta mới có thể dựa vào đó để tạo dựng quyền tự chủ của một đơn vị. Lý do thứ hai là sự sáng tạo tuyệt vời trong lãnh đạo, quản trị, điều hành đất nước của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng đầu tiên ký quyết định thành lập trường và cùng với cố GS.Viện sĩ Nguyễn Văn Đạo, Giám đốc đầu tiên của Đại học Quốc gia Hà Nội, nói rằng "cho tất cả, trừ tiền". Có nghĩa là Nhà nước cho cơ chế, cho chính sách nhưng không cho giáo viên và sinh viên tiền mà phải tự tìm kiếm con đường để xây dựng nhà trường từ số 0, xây dựng cơ sở vật chất, tức là tự chủ hoàn toàn về đầu tư xây dựng, tự chủ hoàn toàn về nguồn nhân lực. Thứ ba là xây dựng nền tảng học thuật từ số 0, nghĩa là tự chủ về học thuật. Đấy là ba câu hỏi vô cùng khó, và có lẽ không có nguyên nhân thứ ba thì không có ai thành công được.
Phải nói rằng thế hệ thầy, trò chúng tôi rất may mắn. Tôi về lãnh đạo nhà trường từ năm 2013, từ đó đến nay có hàng chục giáo sư, chuyên gia đầu ngành từ khoa học quốc phòng, khoa học an ninh, khoa học quản lý, quản trị, kinh tế, giáo dục, công nghệ… ủng hộ, hỗ trợ và trực tiếp tư vấn cho thầy trò cách đột phá, phá bỏ một số rào cản để đột nhập vào những khu vực sáng tạo và sáng tạo ra trường phái học thuật mới để không phải đi sau, bắt trước, sao chép của nước ngoài. Đấy là lý do thứ ba rất quan trọng. Phải có những người thầy vĩ đại sát cánh cùng với những người dám dũng cảm tự chủ từ khi trong tay chỉ là số 0.
Thứ tư, cá nhân tôi cũng như một số thầy cô ở trường đã chấp nhận đánh đổi, đôi khi phải đặt lên bàn cân đánh đổi tương lai của mình, có thể mất nghề nếu như mình không tự chủ được. Đấy là bài toán rất khó khi mình đứng ra lãnh đạo một đơn vị tự chủ không có gì cả mà lại muốn theo chuẩn quốc tế. Đấy cũng là thách thức vai trò lãnh đạo của tập thể, của cá nhân trong một ngôi trường đi từ số 0.
Thưa ông Võ Quang Lâm, ông đánh giá như thế nào về vấn đề liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp? Dưới góc nhìn là lãnh đạo doanh nghiệp, cụ thể là EVN – một trong các tập đoàn kinh tế nhà nước lớn, đang trong tiến trình chuyển đổi năng lượng, phát triển công nghệ cao và tự động hóa, EVN kỳ vọng gì từ mối liên kết với các trường đại học tự chủ?
Ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam: Sự phối hợp giữa EVN và các trường đại học tự chủ càng sâu sắc thông qua hợp đồng kinh tế đào tạo, thể hiện rõ trách nhiệm và vai trò của đôi bên - Ảnh: VGP/Dương Tuấn
Ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam: Trong 15 năm qua, chúng tôi chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các trường đại học trong nước, đặc biệt là quá trình liên kết với trường quốc tế, viện nghiên cứu trên thế giới. Đây là quá trình các trường chủ động thực hiện tự chủ trong đào tạo, gắn bó hữu cơ với hệ thống doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu phát triển công nghệ, tự động hóa trong ngành điện.
Kể từ năm 2014, khi Tập đoàn Điện lực Việt Nam kỷ niệm 60 năm, chúng tôi đã tuyên bố hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo cung cấp đủ điện cho đất nước, tiến tới hoàn thành cơ bản điện khí hóa nông thôn. 15 năm vừa qua, hệ thống điện Việt Nam đổi thay rõ rệt: Tốc độ tăng trưởng hệ thống điện gấp đôi giai đoạn trước đó, chỉ mất 10 năm để đạt quy mô tăng cấp độ, và thời gian tới dự kiến chỉ cần 5-6 năm để hệ thống tiếp tục tăng gấp đôi quy mô.
Để đáp ứng yêu cầu đó, nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt. Hiện tại EVN có tỉ lệ cán bộ, nhân viên tốt nghiệp đại học (kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ…) tăng đáng kể, đạt xấp xỉ 51%. Hệ thống điện nước ta hiện đã đứng thứ 22 trên thế giới về quy mô, với dân số đứng thứ 15, và 99,83% số hộ dân sử dụng điện - đây là tỉ lệ rất cao.
Thành tựu này trực tiếp nhờ vào nguồn nhân lực được đào tạo từ các trường đại học, nhất là trong 15 năm thực hiện tự chủ. Xu hướng phân tầng hóa, phi carbon, số hóa hệ thống điện rất mạnh và rõ rệt; các kỹ sư tốt nghiệp đại học đã giải quyết nhiều bài toán thực tiễn trong ngành và góp phần đổi mới, sáng tạo, hiện đại hóa toàn ngành.
Sự phối hợp giữa EVN và các trường đại học tự chủ càng sâu sắc thông qua hợp đồng kinh tế đào tạo, thể hiện rõ trách nhiệm và vai trò của đôi bên. Thông qua quá trình đào tạo, chúng tôi phát hiện nhu cầu, xác định rõ chương trình, đội ngũ, từ đó tạo điều kiện cho sinh viên phù hợp tiếp cận làm việc tại doanh nghiệp.
EVN còn trao học bổng cho sinh viên xuất sắc, đặt hàng đề tài nghiên cứu khoa học, phối hợp với giảng viên giải các bài toán lớn, cấp thiết của ngành điện. Chúng tôi còn xây dựng khung năng lực đầy đủ dựa trên số hóa để mỗi nhân viên nhìn thấy lộ trình phát triển, lựa chọn ngành nghề, trường đào tạo phù hợp. Hiện đã triển khai các chương trình phát triển chuyên gia (trong 3 năm, tổ chức 45 chương trình cho 100 lớp, gần 3.000 lượt cán bộ nhân viên đào tạo chuyên sâu). Ngoài ra, chúng tôi ứng dụng mạnh mẽ đào tạo số, e-learning.
EVN kỳ vọng các trường đại học tự chủ sẽ tham gia sâu hơn, nâng cấp bài giảng, phòng thí nghiệm, bổ sung các kỹ năng thực hành, đổi mới sáng tạo cho sinh viên. Nếu sinh viên không được trang bị đầy đủ kỹ năng tư duy đổi mới, sáng tạo, sẵn sàng giải quyết các bài toán lớn thì khó đáp ứng yêu cầu công việc trong môi trường doanh nghiệp hiện đại.
Theo ông, làm thế nào để tăng cường quan hệ hợp tác nhà trường – doanh nghiệp ngày càng gắn bó, hữu cơ hơn?
Ông Võ Quang Lâm: Đó là cần đặt mục tiêu tuyển chọn, hỗ trợ, trao học bổng cho sinh viên tiêu biểu, xuất sắc theo học các ngành kỹ thuật điện, công nghệ thông tin…, đồng thời tạo điều kiện thực tập ngay tại doanh nghiệp để sinh viên hiểu hơn thực tế vận hành.
Ngược lại, EVN thường xuyên "đặt hàng" cho giảng viên, nhà trường cùng phối hợp nhận diện bài toán trọng tâm của doanh nghiệp và cùng tìm giải pháp thực tế.
Chúng tôi cũng chủ động tổ chức hội thảo, diễn đàn để cán bộ doanh nghiệp và giảng viên trường đại học trao đổi, cập nhật, tiếp cận kiến thức, thông tin mới nhất về ngành điện thế giới.
EVN liên tục phối hợp tổ chức các khóa đào tạo với sự tham gia của các trường đại học uy tín trong nước, quốc tế, bảo đảm trao đổi hai chiều, kịp thời cập nhật, lan tỏa đổi mới đổi mới sáng tạo trong ngành.
Một trong những lo ngại lớn nhất hiện nay là sự nhầm lẫn giữa "tự chủ" và "buông lỏng quản lý". Tự chủ không thể đồng nghĩa với việc trường đại học được làm mọi thứ theo ý mình mà không bị ràng buộc trách nhiệm. Để tránh tình trạng tự chủ bị hiểu lầm là "buông lỏng quản lý", thưa PGS.TS. Lưu Bích Ngọc, theo bà cần thiết kế hệ thống kiểm định, quản lý giáo dục và hậu kiểm ra sao để vừa hiệu quả, vừa công bằng?
PGS.TS. Lưu Bích Ngọc: Tự chủ không phải là buông lỏng quản lý - Ảnh: VGP/Dương Tuân
PGS.TS. Lưu Bích Ngọc: Chúng ta phải thống nhất với nhau rằng, tự chủ không phải là buông lỏng quản lý. Trước đây, Nhà nước cho phép các cơ sở giáo dục đại học công lập được tự chủ, luôn có các cơ chế giám sát từ tiền kiểm đến hậu kiểm đi kèm. Xu thế hiện nay và trong tương lai là sẽ tăng cường công tác hậu kiểm. Nhà nước đóng vai trò "kiến tạo", ban hành các chính sách về các quy chuẩn chung như chuẩn cơ sở giáo dục đại học, chuẩn chương trình đào tạo và chuẩn đầu ra. Còn tất cả các hệ thống hậu kiểm ở phía sau sẽ đi vào và phát triển mạnh mẽ hơn để giám sát sự vận hành, đảm bảo chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học tự chủ sẽ có các sản phẩm đào tạo đầu ra có thể đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Trong thời gian này, tư tưởng cũng cần phải thúc đẩy, xây dựng văn hóa đảm bảo chất lượng từ bên trong, cũng như tạo ra các mô hình quản trị mới trong các cơ sở giáo dục đại học công lập. Song song với đó, cần đẩy mạnh trách nhiệm giải trình và tăng cường sự giám sát của Nhà nước, của xã hội và người học đối với tất cả các hoạt động vận hành của cơ sở giáo dục đại học công lập. Tất cả những tư tưởng này đang được chuyển hóa vào Luật Giáo dục Đại học sửa đổi. Dự kiến, Luật này sẽ được trình Quốc hội xem xét thông qua vào kỳ họp tháng 10 năm 2025, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho giai đoạn phát triển mới.
Có nhiều ý kiến cho rằng kiểm định chất lượng đại học không nên chỉ là công việc của các cơ quan hành chính, mà cần có sự tham gia mạnh mẽ hơn từ xã hội - từ người học, doanh nghiệp, và cộng đồng. GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm có đồng tình với quan điểm đó không? Và nếu có, theo ông, làm sao để cơ chế kiểm định thực sự phản ánh tiếng nói của xã hội, chứ không chỉ là một thủ tục hành chính khô cứng?
GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm (trái) và PGS.TS. Hoàng Đình Phi chia sẻ quan điểm về kiểm định chất lượng đại học tại Tọa đàm - Ảnh: VGP/Dương Tuấn
GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm: Việc kiểm định và đánh giá chất lượng của một cơ sở giáo dục đào tạo, trong đó có các trường đại học, có rất nhiều cách đánh giá. Tuy nhiên có một kênh như vừa rồi PGS.TS Lưu Bích Ngọc vừa nói, đó là sự kiểm định, đánh giá rộng hơn từ phía nhân dân, của phụ huynh, đặc biệt là của sinh viên sau thời gian ra trường, từ thực tiễn việc sử dụng lao động của các doanh nghiệp, các cơ quan (trong lực lượng vũ trang có công an nhân dân, quân đội nhân dân). Tôi cho rằng đây là những nơi đánh giá chính xác hiệu quả đào tạo.
Cùng với việc thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý giáo dục và đào tạo như ủy ban kiểm tra, thanh tra, kiểm toán… sẽ giúp cho tự chủ đại học mới ngày càng hoàn thiện và tốt hơn.
Xin PGS.TS. Hoàng Đình Phi cho biết quan điểm của mình về vấn đề này?
PGS.TS Hoàng Đình Phi: Tôi đã trực tiếp tham gia thiết kế, bảo vệ và xin phép triển khai các chương trình đào tạo liên ngành tại Việt Nam, đồng thời chỉ đạo các nhóm nhà giáo và nhà khoa học chuẩn bị hồ sơ, thủ tục và thực hiện kiểm định chất lượng. Sau 5 năm, các chương trình cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ của Trường Quản trị và Kinh doanh đã đạt chứng nhận kiểm định theo tiêu chuẩn châu Âu do ACQUIN, một tổ chức uy tín của Đức, cấp. Chứng nhận này khẳng định chất lượng đào tạo đạt chuẩn quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong hội nhập giáo dục.
Tại Việt Nam, các cơ sở đào tạo được Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp phép và đánh giá theo tiêu chuẩn quốc gia. Ngoài ra, các chương trình có thể đạt các tiêu chuẩn khu vực như AUN-QA (ASEAN University Network – Quality Assurance) hoặc các tiêu chuẩn quốc tế như châu Âu hoặc AACSB của Hoa Kỳ. Việc đạt kiểm định quốc tế chứng minh chất lượng chương trình do người Việt thiết kế và triển khai, hỗ trợ giảng dạy bằng tiếng Anh, thúc đẩy hội nhập và cạnh tranh toàn cầu. Để đảm bảo chất lượng đầu ra, cần phân loại rõ các cấp độ kiểm định để đánh giá toàn diện.
Chất lượng các cơ sở đào tạo đại học được đánh giá dựa trên đội ngũ giảng viên (giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ), chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Các chỉ số hiệu quả chính (KPI) bao gồm tỉ lệ giảng viên trên sinh viên (ví dụ: 1/20), số bài báo quốc tế của giảng viên trên các tạp chí uy tín mỗi năm, và tỉ lệ sinh viên quốc tế. Các tổ chức kiểm định chuyên nghiệp trong và ngoài nước sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế để đánh giá.
Đương nhiên, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, quyền giám sát của nhân dân là rất quan trọng. Giám sát cần diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc. Chúng ta phải đánh giá cao vai trò của xã hội, lắng nghe ý kiến của người học và phụ huynh.
Trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển, phụ huynh và sinh viên có thể bày tỏ ý kiến về chất lượng đào tạo thông qua các kênh trực tuyến và ngoại tuyến. Tại Trường Quản trị và Kinh doanh, sau mỗi học phần, sinh viên đánh giá chất lượng giảng dạy của giảng viên trên hệ thống phần mềm dựa trên các tiêu chí cụ thể. Nếu điểm đánh giá không đạt 80/100, giảng viên có thể không được tiếp tục giảng dạy học phần đó. Quá trình đánh giá được thực hiện công khai, minh bạch, tập trung vào chất lượng giảng dạy - không chỉ là năng lực người thầy mà còn là chất lượng buổi dạy cụ thể. Vì đôi khi, chỉ cần thầy bị khàn giọng thì tiết học hôm đó cũng sẽ không đạt chất lượng như mong muốn.
Thưa ông Võ Quang Lâm, dưới góc độ là đại diện của một tập đoàn lớn như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), trong bối cảnh nhu cầu đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý ngày càng trở nên cấp thiết, đặc biệt là trong thời kỳ chuyển đổi số và chuyển đổi năng lượng, theo ông, các chương trình đào tạo của các trường đại học, viện nghiên cứu hiện nay đã đáp ứng được nhu cầu đó hay chưa?
Ông Võ Quang Lâm: Hiện nay, các trường đang thực hiện rất tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp - Ảnh: VGP/Dương Tuấn
Ông Võ Quang Lâm: Chúng tôi luôn nhận thức rằng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là lực lượng quan trọng nhất trong quá trình đổi mới. Nếu không có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý xứng tầm nhiệm vụ, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế thì rất khó hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Trong các chương trình đào tạo, chúng tôi luôn đặt trọng tâm như đã đề cập - đó là phải theo các chuẩn mực quốc tế. Bởi nếu Tập đoàn không được quản trị theo chuẩn mực quốc tế, thiếu hệ thống đánh giá minh bạch, đo lường bằng các tiêu chí cụ thể thì sẽ rất khó kiểm soát và đánh giá hiệu quả.
Do đó, các bộ tiêu chí cần được xây dựng trong quá trình đào tạo để đánh giá không chỉ năng lực, chất lượng giảng viên, mà còn phải xác định rõ hiệu quả học tập, kết quả đào tạo mang lại cho từng học viên, cán bộ quản lý.
Bên cạnh những kỹ năng lãnh đạo thông thường, cán bộ quản lý còn cần bổ sung thêm nhiều kỹ năng quản lý doanh nghiệp hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. Đây là mục tiêu lớn mà chúng tôi đặt ra.
Ngoài ra, cán bộ lãnh đạo, quản lý còn phải là người có vai trò dẫn dắt, truyền cảm hứng; bởi nếu không làm được điều đó thì rất khó thuyết phục tập thể đồng lòng đi theo định hướng chung. Trong bối cảnh chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo mạnh mẽ hiện nay, nếu cán bộ quản lý không thật sự dẫn dắt, không truyền được cảm hứng thì công tác chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo cũng rất khó thành công.
Hơn nữa, cán bộ quản lý còn phải sẵn sàng giải quyết những bài toán, những rủi ro truyền thống và cả phi truyền thống. Trong môi trường hiện đại như hiện nay, nếu không có những kiến thức, kỹ năng và công cụ phù hợp để quản lý các tương tác trong môi trường số thì sẽ đối mặt với rất nhiều rủi ro lớn trong vận hành hệ thống.
Chúng tôi rất tự hào rằng hai ngày nữa, Trường HSB sẽ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập, và EVN là đơn vị đồng hành ngay từ những ngày đầu thành lập cùng với Trường. Đến nay, chúng tôi cùng với Trường đã tổ chức đào tạo hàng trăm lượt cán bộ quản lý các cấp, từ cấp cơ sở đến cấp trung và cấp cao trong toàn Tập đoàn. Rõ ràng, trải nghiệm làm việc sau các chương trình đào tạo - dù ngắn hạn hay chương trình thạc sĩ - cho thấy các cán bộ đều phát huy tốt trách nhiệm của mình.
Chúng tôi đánh giá cao sự hợp tác này; các trường đã thay đổi nhanh chóng cả về phương pháp giảng dạy, tài liệu cũng như kỹ năng giảng dạy của giảng viên, tạo môi trường hợp tác rất hiệu quả. Do đó, hiện nay, các trường đang thực hiện rất tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp.
Hiện nay tự chủ giáo dục nói chung và tự chủ đại học nói riêng vẫn là trường hợp đặc biệt, chưa trở thành phổ quát trong toàn hệ thống. Theo PGS.TS Lưu Bích Ngọc, đâu là chính sách phải thay đổi đầu tiên để tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho tự chủ đại học?
PGS.TS. Lưu Bích Ngọc: Nói về các chính sách để thúc đẩy tự chủ đại học trong thời gian hiện nay, quả thực cũng là bài toán khá khó. Nhưng chúng ta phải thấy tự chủ đại học là xu hướng tất yếu. Tự chủ đại học chắc chắn sẽ là động lực, là nền tảng cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam bật lên.
Theo ý kiến của cá nhân tôi, tôi cũng bám theo những gì chúng ta đã bàn luận và phân tích từ nãy đến giờ là sắp xếp lại các vấn đề về động lực, nguồn lực hay năng lực cho tự chủ đại học.
Trước khi nói về động lực, chúng ta cần phải nghiên cứu lại cơ chế vẫn dùng theo đúng tinh thần Nghị quyết 18 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đó là cơ chế tinh, gọn, mạnh cho quản trị nhà trường tại các cơ sơ giáo dục đại học công lập hiện nay. Có rất nhiều điểm vướng mắc, điểm nghẽn chưa được tháo, cởi trong thời gian vừa qua. Đó là tính hình thức trong thiết kế và vai trò của Hội đồng trường đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập. Chúng ta thiết kế có Hội đồng trường, nhưng số lượng thành viên trong Hội đồng trường đa số là "người của Hiệu trưởng" gồm các lãnh đạo chủ chốt nhà trường và lãnh đạo chủ chốt các khoa, phần lớn vẫn dưới sự điều hành của Hiệu trưởng. Việc mời các doanh nghiệp tham gia vào Hội đồng trường, tuy nhiên với nhiệm vụ kiêm nhiệm, nên dường như còn thiếu tính gắn kết để các Tập đoàn, doanh nghiệp có thể đi sâu vào và có những hỗ trợ trong các quyết sách của Hội đồng trường, các cơ sở giáo dục đại học công lập hiện nay.
Quyền lực lãnh đạo và quyền lực quản lý chưa được phân định rõ ràng giữa Đảng uỷ, Hội đồng trường và Ban Giám hiệu khiến làm giảm động lực để đẩy mạnh tự chủ và đổi mới. Khúc mắc này cần phải tháo gỡ. Đó là tính chồng chéo, thiếu hiệu quả khi thiết lập Hội đồng trường giữa Hội đồng trường thành viên và Hội đồng trường đại học ở mô hình Đại học Quốc gia. Đại học Quốc gia mang tính chất là đại học dẫn dắt, nhưng trong cơ chế quản trị dường như đang thiếu hiệu quả khi có 2 Hội đồng đại học và Hội đồng của trường đại học thành viên.
Thời gian này cần suy xét xem có nên có mô hình quản trị mới đối với tự chủ đại học hay không? Ví dụ như có thể xem xét để các đại học công lập được tự chủ có mô hình quản trị như mô hình quản trị của doanh nghiệp hay tập đoàn. Không phải là biến đại học thành doanh nghiệp hay tập đoàn, nhưng mô hình hoạt động thì nên học tập. Đây chính là tham chiếu đúng với chủ trương của Đảng về quản trị nhà nước nói chung trong giai đoạn hiện nay, đó là thực hiện chủ trương đầu tư công nhưng quản trị tư. Với một mô hình quản trị tăng tính hiệu lực, hiệu quả, hiệu năng lên rất nhiều, cũng đã đến lúc cần phải suy xét. Chúng ta phải nghiên cứu trước, sau đó thí điểm và nhân rộng, nếu nó thực sự làm thay đổi các động lực cho tự chủ đại học trong thời gian tới.
Và khi nói đến tự chủ đại học, hệ thống của chúng ta không chỉ có các cơ sở giáo dục đại học công lập, phải có sự cạnh tranh thì mới phát triển. Chính vì thế tự chủ đại học với các đơn vị sự nghiệp công lập thiết nghĩ phải có sự cạnh tranh bình đẳng với các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập và phải được đặt trong một quy hoạch tổng thể, có phân tầng để sau này còn xem xét đến thiết chế, quy chế về đầu tư cho giáo dục đại học nói chung. Quy hoạch này phải đáp ứng được mục tiêu phát triển quốc gia, phát triển vùng, phát triển địa phương với những nhu cầu phát triển của giai đoạn mới mà hiện nay Đảng và nhà nước đặt ra.
Về nguồn lực, tôi nghĩ cần phải thay đổi tư duy. Tự chủ là giải pháp để xã hội hóa giáo dục đại học nhưng không phải cắt giảm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đại học, hoàn toàn chỉ dựa vào tự chủ. Tự chủ phải song hành với đầu tư. Đầu tư để đổi mới sáng tạo, để phát triển. Đặc biệt, theo tinh thần Nghị quyết 57, đại học phải trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, là nòng cốt thực hiện các đột phá về khoa học công nghệ. Vì vậy, đầu tư cho giáo dục đại học từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác vẫn cần được ưu tiên.
Cần đẩy mạnh hơn nữa sự bắt tay giữa doanh nghiệp và đại học. Đây là một cơ chế tận dụng và đầu tư nguồn lực. Doanh nghiệp được gì và đại học được gì để làm sao cân bằng lợi ích theo mô hình "win-win". Xét về nguồn lực, đây chính là đầu tư nguồn lực từ phía khối doanh nghiệp cho khối đại học. Ngược lại, các cơ sở giáo dục đại học cũng cung cấp một nguồn lực vô cùng quan trọng: Đó là nguồn nhân lực vận hành và nhân lực quản lý cho doanh nghiệp hiện nay.
Cơ chế để hợp tác doanh nghiệp với đại học sẽ giúp cung cấp nguồn lực cho các cơ sở giáo dục đại học tự chủ, vươn lên. Trong toàn bộ nền kinh tế của chúng ta, cái bắt tay này sẽ tạo lên sự chuyển đổi mới, tạo lên những động lực tăng trưởng mới cho cả nền kinh tế.
Một điều nữa là khi xem xét việc đầu tư, nhất định trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam phải có sự phân tầng, phải có sự định vị vai trò giữa các cơ sở giáo dục đại học ở Trung ương, các cơ sở giáo dục đại học địa phương. Đặc biệt, cuộc cách mạng sáp nhập 64 tỉnh, thành phố đã tạo nên một không gian phát triển mới cho các địa phương. Điều này có nghĩa nguồn nhân lực của các địa phương rất cần được quan tâm. Các cơ sở giáo dục địa phương sẽ trở thành những đơn vị nòng cốt. Vì vậy, đầu tư như thế nào đối với đại học ở Trung ương, đại học ở địa phương và đào tạo nhân lực ở các ngành, lĩnh vực khác nhau là bài toán cần phải tính đến trong quy hoạch. Từ quy hoạch đó, phân tầng đó, chúng ta mới có bài toán đầu tư hiệu quả về ngồn lực.
Ý cuối cùng tôi muốn nói là năng lực tự chủ là yếu tố quan trọng. Nếu như đội ngũ các nhà quản trị đại học không có năng lực, tư duy mới và tầm nhìn mới thì tự chủ đại học sẽ không thể thành công. Do đó, cần có những chính sách để đầu tư cho đào tạo, đầu tư thu hút và xây dựng những chính sách mới để thu hút những người thực sự giỏi về lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học nói riêng hay các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung. Đó là những người thực sự có năng lực điều hành và vận hành các đơn vị sự nghiệp công lập mà có thể phát huy được tính tự chủ của mình trong giai đoạn mới.
Tự chủ không chỉ là một khung pháp lý, mà phải được vận hành linh hoạt, nhanh và hiệu quả trong từng quyết định hằng ngày. Từ kinh nghiệm của mình, theo PGS.TS Hoàng Đình Phi, đâu là điều kiện tiên quyết để các trường có thể làm được điều đó?
PGS.TS Hoàng Đình Phi chia sẻ kinh nghiệm xây dựng và vận hành Trường Quản trị và Kinh doanh (HSB) trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội - Ảnh: VGP/Dương Tuấn
PGS.TS Hoàng Đình Phi: Qua hơn ba thập kỷ kinh nghiệm, đặc biệt trong 13 năm gần đây, tôi và đội ngũ giảng viên, dưới sự hỗ trợ của các giáo sư và lãnh đạo, đã vượt qua nhiều khó khăn để đưa Trường Quản trị và Kinh doanh từ xuất phát điểm ban đầu đến một cơ sở đào tạo đạt tiêu chuẩn chất lượng châu Âu. Hành trình tự chủ hoàn toàn của một trường đại học công lập tại Việt Nam đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng và cái giá phải trả không hề nhỏ. Kết quả là, trường đã đạt chứng nhận kiểm định châu Âu cho sáu chương trình cử nhân, ba chương trình thạc sĩ và một chương trình tiến sĩ, đồng thời xây dựng một trường phái học thuật về quản trị và an ninh có uy tín quốc gia và quốc tế.
Thành tựu này đến từ việc phát triển một mô hình đào tạo sáng tạo, kết hợp nghiên cứu liên ngành, giảng dạy theo các chương trình liên ngành mới, và chuyển giao tri thức cho các tổ chức, doanh nghiệp. Mô hình này tạo thành một chu trình khép kín, mang lại giá trị bền vững cho giáo dục và xã hội. Thành công này được dẫn dắt bởi đường lối đổi mới giáo dục toàn diện của Đảng, với trọng tâm nâng cao chất lượng đào tạo đại học để hội nhập quốc tế.
Theo tôi, giáo dục đại học, trong bối cảnh toàn cầu, cần được định vị ở đỉnh cao của kim tự tháp tri thức, thay vì phổ cập hóa một cách đại trà. Không phải mọi tỉnh đều cần một trường đại học quy mô lớn, mà cần tập trung vào chất lượng khoa học và đào tạo. Đối với những người không phù hợp với con đường học thuật, việc học nghề hoặc các ngành đào tạo khác là lựa chọn hợp lý, tránh lãng phí thời gian, nguồn lực của gia đình và xã hội.
Sự thành công trong hành trình đổi mới giáo dục đại học tại Việt Nam, đặc biệt tại các trường công lập tự chủ, được thúc đẩy bởi bốn yếu tố cốt lõi.
Thứ nhất, đường lối đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo nền tảng vững chắc cho việc nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo đại học, hướng tới hội nhập quốc tế.
Thứ hai, việc cải cách thủ tục hành chính của Bộ Giáo dục và Đào tạo đóng vai trò quan trọng. Thay vì can thiệp trực tiếp vào chuyên môn học thuật, Bộ tập trung vào giám sát và hỗ trợ hành chính, tạo điều kiện để các trường đại học tự chủ phát huy năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng viên và quản lý.
Thứ ba, sự sáng tạo và quyết tâm của tập thể giảng viên tại các trường công lập là yếu tố then chốt. Vượt qua những khó khăn về tài chính và nguồn lực, các giảng viên chấp nhận rủi ro, thi đua và hợp tác với các trường đại học hàng đầu thế giới, xây dựng các chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế. Những chương trình này không chỉ đáp ứng nhu cầu của người học, xã hội và nền kinh tế quốc gia, mà còn mang lại lợi ích lâu dài cho cá nhân và cộng đồng.
Thứ tư, sự tham gia tích cực của phụ huynh và sinh viên đóng vai trò quan trọng trong việc định hình tương lai giáo dục. Sinh viên, với sự hỗ trợ của gia đình, cần lựa chọn ngành học và chương trình đào tạo phù hợp, hướng tới việc phát triển kiến thức, kỹ năng, và các giá trị cốt lõi bao gồm sức khỏe, đạo đức, ý chí, tài năng, tình yêu và trách nhiệm. Những giá trị này giúp thế hệ trẻ tự quyết định vận mệnh, đóng góp bền vững cho gia đình và Tổ quốc.
Sự kết hợp của các yếu tố trên – từ đường lối lãnh đạo, cải cách quản lý, đến sự sáng tạo của giảng viên và trách nhiệm của xã hội – tạo nên động lực mạnh mẽ, giúp các trường công lập vượt qua thách thức trong hành trình tự chủ, hướng tới những thành tựu vinh quang trong giáo dục đại học.
Ông Võ Quang Lâm và PGS.TS. Lưu Bích Ngọc tại Tọa đàm - Ảnh: VGP/Dương Tuấn
Thưa ông Võ Quang Lâm, trong bối cảnh chuyển đổi năng lượng và chuyển đổi số, EVN kỳ vọng gì vào nguồn nhân lực được đào tạo từ các trường đại học trong thời gian tới? Và theo ông, đâu là điểm mà các trường cần cải thiện cấp thiết nhất trong đào tạo hiện nay?
Ông Võ Quang Lâm: Việc cấp thiết nhất là chúng ta đang đứng trước các thách thức chưa có tiền lệ. Việc giải quyết vấn đề đầu tư xây dựng, vận hành, quản trị một hệ thống điện sẽ có quy mô tăng gấp đôi trong khoảng 5 năm tới là những thách thức chưa có tiền lệ, kể cả phần kỹ thuật lẫn phần quản trị. Chính vì vậy chúng tôi rất mong các trường, các thầy cô cùng với chúng tôi luôn cập nhật những kiến thức mới nhất, thông tin mới nhất và kỹ năng mới nhất mà các trung tâm đào tạo có uy tín trên thế giới đang triển khai. Chúng tôi có cán bộ ,công nhân viên có tâm huyết, có khả năng sẵn sàng tham gia vào các chương trình để làm sao cho sau mỗi chương trình đào tạo, sinh viên có kiến thức, kỹ năng nhất định để sẵn sàng đáp ứng được mọi nhiệm vụ trong thời gian sắp tới.
Thưa GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới, trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số mạnh mẽ, trong bối cảnh cả nước đang cải cách hệ thống chính trị theo hướng"tinh, gọn, mạnh", "hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả", ông cho rằng đâu là những nút thắt lớn nhất mà giáo dục đại học Việt Nam cần tháo gỡ để thực sự hội nhập quốc tế – không chỉ về hình thức mà cả chất lượng và năng lực cạnh tranh thực chất?
GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm: Tôi cho rằng sắp tới đây, Trung ương sẽ ban hành 01 nghị quyết về hiện đại hóa và đột phá giáo dục đào tạo, giống như đối với hành chính, phải "sắp xếp lại giang sơn" trong giáo dục và đào tạo.
Một mô hình quản trị tốt về giáo dục và đào tạo là mô hình chóp như thầy Phi vừa nêu. Chúng ta phổ cập giáo dục phổ thông cho tất cả trẻ em, cho toàn dân, nên giáo dục phổ thông, đặc biệt là giáo dục mần non phải đến được các thôn, làng, ấp, bản trên toàn quốc.
Tuy nhiên, giáo dục đại học-giáo dục tinh hoa, cần tính toán lại, rút bớt các trường đại học để có những đại học mạnh. Những nơi có đại học quốc gia, đại học vùng không nên để những trường đại học nhỏ, thiếu cả về đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất.
Đối với những địa phương có phát triển đô thị hóa cao, cần đào tạo nguồn nhân lực lớn hoặc các tập đoàn kinh tế lớn thì nên ưu tiên phát triển các trường đại học của các cơ sở này.
Thứ hai, muốn đổi mới giáo dục đào tạo, coi đây là đột phá thì phải tăng quyền cho hiệu trưởng. Tất cả đổi mới của nhà trường phải bắt đầu từ thầy giáo, đặc biệt là hiệu trưởng, người quyết định sự đổi mới và thành công của giáo dục và đào tạo.
Hiện nay, chúng ta có nhiều cơ chế, tuy nhiên đối với các trường công lập, chúng ta có Ban chấp hành Đảng ủy thì không nên thành lập Hội đồng trường. Đảng ủy nói theo nghĩa nào đó thực chất là Hội đồng trường.
Ở Trường Quản trị và Kinh doanh, thầy Hoàng Đình Phi là hiệu trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy. Đối với Học viện Cảnh sát nhân dân, tôi cũng là Bí thư Đảng ủy và Hiệu trưởng, hiện nay đây cũng là một trong những trường đại học đẹp và hiện đại nhất của Việt Nam. Mô hình này có cơ chế tạo cho hiệu trưởng quyết định tất cả những công việc mà Nhà nước đã giao cho mình trong khuôn khổ pháp luật.
Điểm thứ ba là muốn đổi mới giáo dục đào tạo phải có một quan niệm mới, tư duy mới về thầy giáo.
Thầy giáo ngày nay không chỉ giỏi về dạy học, giỏi về nghiên cứu khoa học mà còn phải giỏi về thực tiễn.
Đội ngũ giáo viên không chỉ là kiêm chức, phải tham gia vào công tác quản lý, tổ chức giảng dạy; những nơi dạy về kinh tế phải có sự tham gia của các nhà hoạt động kinh tế, các giám đốc doanh nghiệp dạy cho các em cách làm giàu. Thầy giáo không biết cách tự làm giàu cho mình thì không thể đi dạy người khác làm giàu được, đây là một thực tiễn.
Thứ tư là phải tăng cường nguồn lực. Quốc hội, Chính phủ ưu tiên phát triển, dành nguồn ngân sách thỏa đáng, trong điều kiện có thể của Việt Nam, cho giáo dục và đào tạo.
Qua kinh nghiệm xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam, cần huy động toàn bộ hệ thống chính trị vào cuộc. Một kinh nghiệm từ Học viện Cảnh sát nhân dân, đây là trường bao cấp, Nhà nước trả lương cho cán bộ, một số đầu tư cơ bản nhưng chúng tôi xây dựng được trường đẹp và hiện đại là từ nguồn xã hội hóa.
Điểm cuối cùng, phải mở rộng hợp tác quốc tế, trong điều kiện hiện nay, muốn đưa đại học Việt Nam ngang bằng, đuổi kịp với các đại học trên thế giới, dứt khoát phải mở rộng hợp tác quốc tế. Nếu làm tốt điều này, sinh viên của chúng ta ra trường có thể làm việc trong môi trường toàn cầu.
Từ đó, chúng ta sẽ có cơ sở vật chất hiện đại, như chúng tôi đang xúc tiến dự án xây dựng phòng thực hành an ninh mạng trực tiếp và trực tuyến, bằng nguồn vận động tài trợ của nước ngoài. Hy vọng đây cũng là nơi hiện đại, ngang bằng với quốc tế.
Cuối cùng, với phương châm "tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả", với tư cách là người nghiên cứu về giáo dục và quản trị giáo dục, tôi mong muốn mô hình tự chủ đại học sẽ được Trung ương tổng kết, để sau đó nhân rộng trong thời kỳ mới của đất nước.
Tự chủ đại học không còn là một ý tưởng mới, mà đã trở thành một chủ trương lớn, được định hình rõ trong các văn bản pháp lý suốt hơn một thập kỷ qua. Điều xã hội đang kỳ vọng lúc này không chỉ là định hướng, mà là chuyển động thực chất – được đo bằng chất lượng đào tạo, năng lực đội ngũ, và niềm tin của người học.
Những mô hình tiên phong trong tự chủ đại học cho thấy khi có niềm tin, có cơ chế phù hợp và người đứng đầu được trao quyền, tự chủ không phải là đặc quyền, mà khả thi – kể cả khi không dựa vào ngân sách nhà nước. Nhưng để điều đó lan tỏa thành xu hướng chung, chúng ta vẫn cần một hệ sinh thái đủ thông thoáng, đồng bộ từ thể chế đến nhận thức và cách thức vận hành.
Khi mỗi trường đại học được thực sự trao quyền, và cũng được đặt trong khuôn khổ giám sát minh bạch, tự chủ sẽ không còn là một ngoại lệ – mà trở thành nguyên lý vận hành tự nhiên và bền vững của giáo dục đại học Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.