Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
"Thời hiệu" trong luật dân sự ở các nước tiên tiến được hiểu là căn cứ để xác lập hoặc xoá bỏ một quyền, bằng cách để cho một khoảng thời gian trôi qua. Định nghĩa thời hiệu trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (BLDS) sửa đổi cũng có thể coi là một cách khác để diễn đạt thời hiệu theo nghĩa đó.
Sự thừa nhận thời hiệu là một trong những biện pháp của Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu khách quan của pháp luật là bảo đảm trật tự xã hội, công bằng xã hội.
Phải viện dẫn thời hiệu để được hưởng quyền, được miễn trừ nghĩa vụ
Trong BLDS năm 2005 không có quy tắc nào quy định thể thức, thủ tục sử dụng thời hiệu như một vũ khí, một đối sách của bị đơn trong các tranh chấp tư pháp; cũng không có quy tắc liên quan đến khả năng từ chối thụ hưởng thời hiệu của người mắc nợ, người chiếm hữu.
Hậu quả là trong rất nhiều vụ tranh chấp về tài sản, về nghĩa vụ theo hợp đồng, thẩm phán ở Việt Nam đã làm một việc không giống ai là chủ động “thay mặt” bị đơn viện dẫn thời hiệu để bác yêu cầu và thủ tiêu luôn quyền sở hữu, quyền chủ nợ của nguyên đơn, ngay cả trong trường hợp bị đơn không hề biết thời hiệu là gì.
Bộ luật Tố tụng dân sự còn có một điều luật cho phép toà án trả đơn kiện (nghĩa là không thụ lý) một khi thời hiệu khởi kiện đã hết. Với quy tắc đó, quyền lực công trở thành người bảo hộ, che chắn cho bị đơn chống lại nguyên đơn chứ không phải là người phán xét công bằng và vô tư các tranh cãi giữa hai bên, như ở các nước tiên tiến.
Dự thảo BLDS (sửa đổi) đã khắc phục phần nào vấn đề này với quy định tại Điều 170: “Cá nhân, pháp nhân có quyền căn cứ vào thời hiệu để bảo vệ quyền dân sự. Người được hưởng quyền, người được miễn trừ nghĩa vụ có quyền từ chối việc hưởng quyền, được miễn trừ nghĩa vụ, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội”.
Tuy nhiên, quy định nêu trên vẫn cần sửa đổi theo hướng, viện dẫn thời hiệu là một quyền gắn với lợi ích riêng của người thụ hưởng thời hiệu đó, đồng thời cũng là điều kiện để công khai việc thụ hưởng đó. Người này có thể thực hiện mà cũng có thể không thực hiện, thậm chí từ chối thực hiện quyền của mình.
Trong trường hợp người chiếm hữu từ chối thụ hưởng thời hiệu, thì do quyền sở hữu của chủ cũ chưa bao giờ mất đi, tài sản có thể được trả về cho chủ cũ theo cách người ta thanh lý một hợp đồng cho mượn.
Bởi vậy, nên viết lại Điều 170 Dự thảo BLDS liên quan đến hiệu lực của thời hiệu như sau: “Người được hưởng quyền, được miễn trừ nghĩa vụ do thời hiệu phải viện dẫn thời hiệu để được hưởng quyền, được miễn trừ nghĩa vụ. Người được hưởng quyền, người được miễn trừ nghĩa vụ có quyền từ chối việc hưởng quyền, được miễn trừ nghĩa vụ, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội”.
Thời hiệu trong yêu cầu về thừa kế và yêu cầu chia di sản
Trong luật các nước, yêu cầu về thừa kế được hiểu là việc một người yêu cầu tòa án thừa nhận danh hiệu người thừa kế cho mình hoặc phủ nhận tư cách thừa kế của người khác.
Nếu thắng trong việc đòi công nhận tư cách thừa kế cho mình, nguyên đơn sẽ có được tư cách người thừa kế, sẽ có quyền sở hữu đối với tài sản thuộc di sản. Trong trường hợp ngoài nguyên đơn, còn có người khác mà tư cách thừa kế cũng đã được pháp luật thừa nhận, thì nguyên đơn cùng với người đó trở thành chủ sở hữu chung đối với di sản.
Ví dụ: A chết không di chúc và để lại một con là X. Theo pháp luật, X là thừa kế duy nhất ở hàng thứ nhất và có quyền hưởng trọn di sản của A. X hưởng di sản một cách bình yên cho đến ngày nọ, Y xuất hiện, chứng minh rằng mình cũng là con của A và kiện đòi hưởng di sản thừa kế. Nếu thành công (đặc biệt là do quyền khởi kiện về thừa kế chưa mất đi theo thời hiệu), thì Y sẽ cùng với X trở thành đồng chủ sở hữu đối với di sản.
Nếu thắng vụ kiện bác bỏ tư cách thừa kế của người khác, thì sẽ bớt được một người trong số người thừa kế. Di sản sẽ được chia lại.
Ví dụ 2: A chết không di chúc, để lại hai người con là X và Y. Di sản được chia đôi. Tuy nhiên, thời gian sau, X phát hiện Y không phải là con của A. Kiện ra toà, X thắng kiện. Y mất quyền thừa kế và di sản thuộc về X một cách trọn vẹn.
Người yêu cầu chia di sản là người đã có tư cách thừa kế (cũng như tư cách đồng chủ sở hữu đối với di sản chưa chia) được công nhận. Yêu cầu chia di sản chỉ là một trường hợp đặc thù của yêu cầu chia tài sản chung mà trong đó các đồng sở hữu chung là các đồng thừa kế.
Việc yêu cầu chia di sản chịu sự chi phối của luật chung về chia tài sản chung. Đây là một hành vi pháp lý của chủ sở hữu chung trong khuôn khổ thực hiện các quyền của chủ sở hữu. Yêu cầu chia di sản, cũng như yêu cầu chia tài sản chung, không chịu sự chi phối của thời hiệu.
Lấy lại ví dụ 1 nêu trên, sau khi được thừa nhận có tư cách thừa kế và nếu muốn, Y có thể cùng với X duy trì khối di sản trong tình trạng chưa chia. Đến một khoảng thời gian sau đó, nếu không còn muốn duy trì tình trạng sở hữu chung, thì Y có thể thoả thuận với X về việc chia tài sản; trong trường hợp thoả thuận không xong, Y có quyền yêu cầu toà án phân chia bằng một phán quyết.
Pháp luật Việt Nam hiện hành không phân biệt giữa yêu cầu về thừa kế và yêu cầu chia di sản khi nói về thời hiệu khởi kiện. Theo Điều 645 BLDS, thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
Với quy định đó, thì dù tư cách người thừa kế được thừa nhận, nhưng nếu không tiến hành chia di sản trong vòng 10 năm, thì đồng thừa kế sẽ mất quyền yêu cầu chia di sản. Trong trường hợp di sản được đặt dưới sự quản lý thực tế liên tục, công khai của một đồng thừa kế nào đó, thì việc đồng thừa kế khác mất quyền yêu cầu chia di sản cũng đồng nghĩa với việc người này mất luôn phần di sản được hưởng.
BLDS hiện hành cũng xây dựng hẳn một chế định sở hữu chung như là một phần của luật chung về quyền sở hữu. Tuy nhiên, trong chế định ấy lại không có quy định tương tự. Bởi vậy, trong khung cảnh của luật thực định, quyền sở hữu chung có được do thừa kế có thể mất đi sau 10 năm; còn quyền sở hữu chung có được do các căn cứ khác (ví dụ mua bán, trao đổi, tặng cho) thì tồn tại theo luật chung. Không có cách nào để lý giải sự phân biệt đối xử đó.
Trong các nỗ lực khắc phục, nhóm soạn thảo BLDS viết lại điều luật về thời hiệu thừa kế.
“Điều 646. Thời hiệu thừa kế1. Thời hạn yêu cầu Tòa án giải quyết việc thừa kế là ba mươi năm đối với bất động sản, mười năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
2. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản theo quy định tại khoản 1 Điều này thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu hoặc được lợi một cách ngay tình, liên tục, công khai nếu việc chiếm hữu, được lợi phù hợp với quy định tại Điều 177 và Điều 178 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước nếu không có người khác chiếm hữu hoặc được lợi về di sản theo quy định tại điểm a khoản này”.
Điều luật vẫn còn tối nghĩa và vẫn có thể dẫn đến hiểu lầm như trước. Cần xác định “việc thừa kế” là việc gì. Trong không ít trường hợp, một người đồng thời yêu cầu công nhận tư cách thừa kế của mình và yêu cầu chia di sản. Thời hiệu chỉ áp dụng đối với loại yêu cầu thứ nhất, không áp dụng đối với yêu cầu thứ hai. Nếu yêu cầu thứ nhất bị từ chối do hết thời hiệu, thì yêu cầu thứ hai trở nên vô nghĩa, không cần được xem xét.
Bởi vậy Điều này nên quy định như sau:
“Điều 646. Thời hiệu thừa kế
1. Thời hạn yêu cầu Tòa án công nhận tư cách người thừa kế của mình hoặc bác bỏ tư cách người thừa kế của người khác là ba mươi năm đối với việc thừa kế có đối tượng là bất động sản, mười năm đối với việc thừa kế có đối tượng là động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó”.
PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện
Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế-Luật TP. HCM