• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 01/4/2025 (1)

(Chinhphu.vn) - Văn phòng Chính phủ vừa có Thông cáo báo chí chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 01/4/2025 (1).

01/04/2025 18:01

Quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 01/4/2025 (1)- Ảnh 1.

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 1/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.

Nghị định này quy định chi tiết thi hành khoản 1 Điều 1, khoản 2, khoản 3 Điều 3, khoản 2, khoản 3 Điều 4 và Điều 5 của Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất (Nghị quyết số 171/2024/QH15).

Đối đối tượng áp dụng bao gồm cơ quan nhà nước; tổ chức kinh doanh bất động sản theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản; người sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai.

Tổ chức kinh doanh bất động sản theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 171/2024/QH15.

Lập, thông qua và công bố Danh mục khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm

Nghị định quy định, cơ quan có chức năng quản lý đất đai cấp tỉnh thông báo về việc đăng ký nhu cầu thực hiện dự án thí điểm theo quy định tại Nghị quyết số 171/2024/QH15, trong đó quy định rõ thời hạn đăng ký, nội dung đăng ký theo Mẫu số 01 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này. Việc thông báo được đăng tải trên cổng thông tin, trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan có chức năng quản lý đất đai cấp tỉnh.

Tổ chức có nhu cầu thực hiện dự án thí điểm gửi 1 bộ hồ sơ đến cơ quan có chức năng quản lý đất đai cấp tỉnh, hồ sơ gồm: Bản đăng ký theo Mẫu số 02 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này; bản sao một trong các giấy tờ chứng minh đang có quyền sử dụng đất đối với trường hợp đang có quyền sử dụng đất; trích lục bản đồ hoặc sơ đồ vị trí khu đất đề xuất thực hiện dự án thí điểm.

Việc nộp hồ sơ được thực hiện theo một trong các phương thức sau:

Nộp trực tiếp đến Bộ phận Một cửa theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh.

Nộp thông qua dịch vụ bưu chính công ích.

Nộp trên Cổng dịch vụ công quốc gia hoặc Cổng dịch vụ công cấp tỉnh hoặc hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn đăng ký, cơ quan có chức năng quản lý đất đai cấp tỉnh rà soát, đánh giá điều kiện, tiêu chí của các khu đất được đề xuất thực hiện dự án thí điểm; lập Danh mục khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua Nghị quyết ban hành Danh mục khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị quyết số 171/2024/QH15.

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét thông qua Danh mục khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm đồng thời với việc thông qua Danh mục công trình, dự án phải thu hồi đất; trường hợp Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đã thông qua Danh mục công trình, dự án phải thu hồi đất theo quy định tại khoản 5 Điều 72 Luật Đất đai không đồng thời với thời điểm thông qua Danh mục khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Danh mục khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm để Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, thông qua; trong đó có xác định diện tích các loại đất thuộc dự án thí điểm phải chuyển mục đích sử dụng đất mà có diện tích đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất.

Sau khi Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua Danh mục khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện công bố Danh mục khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm trên Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đăng tải công khai trên cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan có chức năng quản lý đất đai cấp tỉnh. Việc công bố trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ký ban hành; ban hành Thông báo về việc chấp thuận cho tổ chức kinh doanh bất động sản được thực hiện dự án thí điểm và chỉ đạo cơ quan có chức năng quản lý đất đai cấp tỉnh thông báo các trường hợp dự án không đáp ứng yêu cầu đưa vào Danh mục khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm. Việc thông báo thực hiện trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày công bố Danh mục khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm.

Sau khi Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua Danh mục khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm mà còn có tổ chức kinh doanh bất động sản đề xuất các khu đất đáp ứng quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị quyết số 171/2024/QH15 thì cơ quan có chức năng quản lý đất đai cấp tỉnh tiếp tục thực hiện theo quy định để đề xuất bổ sung Danh mục khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm.

Thực hiện thủ tục về đầu tư, xây dựng và các thủ tục có liên quan để thực hiện dự án thí điểm

Theo Nghị định, tổ chức kinh doanh bất động sản đang có quyền sử dụng đất hoặc được thành lập theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 171/2024/QH15 hoặc sau khi hoàn thành việc thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất và phần diện tích đất thỏa thuận đủ điều kiện thực hiện dự án thí điểm theo quy định thì thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư thực hiện dự án thí điểm theo quy định tại điểm d khoản 4 Điều 29 và các Điều 30, 31 và 32 của Luật Đầu tư.

Tổ chức kinh doanh bất động sản sau khi được chấp thuận chủ trương đầu tư và chấp thuận nhà đầu tư thì tiến hành các thủ tục khác để thực hiện dự án thí điểm theo quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng, nhà ở, kinh doanh bất động sản, đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Dự án của tổ chức kinh doanh bất động sản đã được chấp thuận chủ trương đầu tư và chấp thuận nhà đầu tư hoặc đã có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến thủ tục đầu tư, xây dựng, quy hoạch và các thủ tục khác về cho phép thực hiện dự án thí điểm thuộc trường hợp nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất trước thời điểm có hiệu lực của Nghị quyết số 171/2024/QH15 mà không ghi thời hạn hoặc có ghi thời hạn nhưng còn thời hạn thì không phải thực hiện lại các thủ tục hoặc cấp lại các văn bản đã có.

Trường hợp dự án đã được chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng chưa chấp thuận nhà đầu tư thì tại bước chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều 7 cơ quan có thẩm quyền chỉ phải thực hiện việc chấp thuận nhà đầu tư.

Thực hiện thủ tục đất đai để thực hiện dự án thí điểm

Nghị định quy định, sau khi dự án thí điểm được chấp thuận chủ trương đầu tư thì các thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, ký hợp đồng thuê đất, đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai hiện hành, trong đó:

a- Trường hợp quyền sử dụng đất đang thuộc về tổ chức kinh doanh bất động sản được chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư thì thực hiện thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất đối với diện tích đất phải chuyển mục đích sử dụng đất;

b- Trường hợp tổ chức đang sử dụng đất có hợp đồng góp vốn, liên doanh, liên kết để thành lập doanh nghiệp dự án mà quyền sử dụng đất không được chuyển quyền thì trả lại đất cho Nhà nước để Nhà nước thu hồi đất và giao đất, cho thuê đất cho doanh nghiệp được thành lập để thực hiện dự án; tổ chức đang sử dụng đất không được bồi thường về tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất. Trường hợp được phép chuyển quyền sử dụng đất thì thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai sang doanh nghiệp được thành lập để thực hiện dự án;

c- Trường hợp dự án của tổ chức kinh doanh bất động sản được các tổ chức đang sử dụng đất thành lập để thực hiện dự án nhà ở thương mại trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành hoặc dự án thí điểm theo quy định tại Nghị định này trên diện tích của cơ sở sản xuất, kinh doanh phải di dời do ô nhiễm môi trường, cơ sở phải di dời theo quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị mà đất để thực hiện dự án chưa được cấp Giấy chứng nhận thì tổ chức phải di dời trả lại đất cho Nhà nước để Nhà nước thu hồi và giao đất, cho thuê đất cho tổ chức kinh doanh bất động sản được tổ chức phải di dời thành lập để thực hiện dự án.

Trường hợp các tổ chức phải di dời đã thực hiện góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào tổ chức kinh doanh bất động sản theo quy định của pháp luật về đất đai thì tổ chức kinh doanh bất động sản thực hiện chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định.

Việc xác định giá đất, thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với dự án thí điểm thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai, pháp luật về thuế, phí, lệ phí và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2025 đến hết ngày 31/3/2030.

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 35/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 01/4/2025 (1)- Ảnh 2.

Chính phủ ban hành Nghị định số 71/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 35/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP). Nghị định số 71/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 18 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP về thời gian thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án PPP theo hướng rút ngắn thời gian.

Cụ thể, thời gian thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án PPP được tính kể từ ngày có quyết định thành lập Hội đồng thẩm định hoặc kể từ ngày đơn vị được giao nhiệm vụ thẩm định nhận đủ hồ sơ hợp lệ hoặc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra đối với trường hợp thuê tư vấn thẩm tra, cụ thể như sau:

a) Dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ: thời gian thẩm định rút ngắn từ không quá 45 ngày xuống còn không quá 30 ngày;

b) Dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác, Hội đồng nhân dân câp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: không quá 14 ngày (quy định cũ là không quá 30 ngày);

c) Đối với dự án thuộc trường hợp chỉ cần lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng: không quá 10 ngày.

Trường hợp dự án có yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, Chủ tịch Hội đồng thẩm định quyết định thời gian thẩm định phù hợp.

Bên cạnh đó, Nghị định số 71/2025/NĐ-CP cũng rút ngắn thời gian thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi dự án PPP đã được quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP.

Theo quy định mới, thời gian thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi dự án PPP được tính kể từ ngày có quyết định thành lập Hội đồng thẩm định hoặc kể từ ngày đơn vị được giao nhiệm vụ thẩm định nhận đủ hồ sơ hợp lệ hoặc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra đối với trường hợp thuê tư vấn thẩm tra, cụ thể như sau:

a) Dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ: thời gian thẩm định rút ngắn từ không quá 90 ngày xuống còn không quá 30 ngày;

b) Dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: không quá 14 ngày (quy định cũ là không quá 60 ngày), đối với dự án quy định tại các khoản 2a, 2b và 2c Điều 11 của Luật PPP: không quá 10 ngày.

Trường hợp dự án có yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, Chủ tịch Hội đồng thẩm định quyết định thời gian thẩm định phù hợp.

Quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP trên phạm vi 2 tỉnh trở lên

Về trình tự quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Điều 12 Luật PPP (được sửa đổi tại khoản 5 Điều 3 Luật số 57/2024/QH15) bổ sung quy định về thẩm quyền quyết định chủ trương của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong đó có quy định phân cấp thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP thuộc phạm vi quản lý của hai đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên từ Thủ tướng Chính phủ cho các địa phương.

Do vậy, Nghị định số 71/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 21 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP về việc quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP trên phạm vi từ hai đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên.

Cụ thể, đối với dự án PPP thực hiện tại địa bàn hai đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 hoặc điểm b khoản 4a Điều 12 của Luật PPP, Thủ tướng Chính phủ phân cấp cho Bộ trưởng bộ quản lý ngành có ý kiến thống nhất về việc giao một cơ quan làm cơ quan có thẩm quyền. Việc quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP được thực hiện như sau:

a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của các địa phương nơi thực hiện dự án trao đổi, thống nhất về việc đề xuất thực hiện dự án, bao gồm các nội dung: tên dự án, quy mô, địa điểm, loại hợp đồng dự án PPP, sơ bộ tổng mức đầu tư, vốn nhà nước trong dự án PPP và phân chia trách nhiệm cân đối, bố trí ngân sách của từng địa phương;

b) Đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại điểm b khoản 4 Điều 12 của Luật PPP, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của các địa phương nơi thực hiện dự án báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, đồng thuận đối với nội dung quy định tại điểm a khoản này.

Căn cứ văn bản đồng thuận của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của các địa phương nơi thực hiện dự án thống nhất với bộ quản lý ngành về việc giao một địa phương làm cơ quan có thẩm quyền;

c) Đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại điểm b khoản 4a Điều 12 của Luật PPP, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của các địa phương nơi thực hiện dự án thống nhất với bộ quản lý ngành về việc giao một địa phương làm cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp dự án có yêu cầu sử dụng vốn nhà nước tham gia dự án PPP thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của các địa phương báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trước khi thống nhất với bộ quản lý ngành về việc giao một địa phương làm cơ quan có thẩm quyền;

d) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được bộ quản lý ngành thống nhất là cơ quan có thẩm quyền của dự án theo quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản này tổ chức chuẩn bị dự án, trình cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư theo quy định tại điểm b khoản 4 hoặc điểm b khoản 4a Điều 12 của Luật PPP;

đ) Trường hợp kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công trình tạm được bố trí từ nguồn ngân sách địa phương của từng địa phương, Ủy ban nhân dân các tỉnh thống nhất, báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh việc phân chia thành các dự án thành phần bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công trình tạm đồng thời với nội dung quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản này để từng địa phương thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công."

UBND cấp tỉnh phê duyệt quyết định chủ trương đầu tư không quá 10 ngày

Nghị định số 71/2025/NĐ-CP cũng bổ sung điểm c khoản 6 Điều 21 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP quy định thời gian phê duyệt quyết định chủ trương đầu tư dự án kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Theo đó, dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: không quá 10 ngày; đối với dự án thuộc trường hợp chỉ cần lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng: không quá 05 ngày làm việc.

Tháo gỡ khó khăn cho nhà đầu tư trong việc huy động vốn và thu xếp tài chính

Nhằm tháo gỡ khó khăn cho nhà đầu tư trong việc huy động vốn và thu xếp tài chính của toàn bộ dự án PPP, Nghị định số 71/2025/NĐ-CP sửa đổi khoản 4 Điều 76 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP theo hướng bỏ quy định cơ quan ký kết hợp đồng chỉ thanh toán tối đa 50% giá trị khối lượng đối với tiểu dự án sử dụng vốn đầu tư công trong dự án PPP (khi doanh nghiệp dự án đã hoàn thành công trình thuộc tiểu dự án); thay vào đó, bổ sung quy định thanh toán đối với tiểu dự án sử dụng vốn đầu tư công như sau:

Trường hợp dự án PPP có tiểu dự án sử dụng vốn đầu tư công theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 70 của Luật PPP, việc thanh toán đối với công trình, hạng mục công trình hoàn thành của tiểu dự án thực hiện theo tiến độ, giá trị, khối lượng hoàn thành được thống nhất giữa cơ quan ký kết hợp đồng và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án tại hợp đồng dự án. 

Quy định về cơ chế, thời gian điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 01/4/2025 (1)- Ảnh 3.

Điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân 3 tháng/lần

Chính phủ ban hành Nghị định số 72/2025/NĐ-CP ngày 28/3/2025 quy định về cơ chế, thời gian điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (28/3/2025).

Nguyên tắc điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân Nghị định số 72/2025/NĐ-CP quy định hằng năm, sau khi Tập đoàn Điện lực Việt Nam công bố công khai chi phí sản xuất kinh doanh điện năm N-2, giá bán lẻ điện bình quân năm N được xem xét, điều chỉnh theo biến động khách quan thông số đầu vào của tất cả các khâu (phát điện, truyền tải điện, phân phối - bán lẻ điện, điều độ vận hành hệ thống điện và điều hành giao dịch thị trường điện lực, dịch vụ phụ trợ hệ thống điện và điều hành - quản lý ngành) và việc phân bổ các khoản chi phí khác chưa được tính vào giá điện.

Trong năm, giá bán lẻ điện bình quân được xem xét điều chỉnh trên cơ sở cập nhật chi phí khâu phát điện, chi phí mua điện từ các nhà máy điện cung cấp dịch vụ phụ trợ theo thông số đầu vào cơ bản trong khâu phát điện và các khoản chi phí khác chưa được tính vào giá điện.

Nghị định nêu rõ: Khi giá bán lẻ điện bình quân giảm từ 1% trở lên so với giá bán lẻ điện bình quân hiện hành thì giá điện được phép điều chỉnh giảm tương ứng.

Khi giá bán lẻ điện bình quân tăng từ 2% trở lên so với giá bán lẻ điện bình quân hiện hành thì giá điện được phép điều chỉnh tăng.

Giá bán lẻ điện bình quân được tính toán theo quy định tại Điều 4 Nghị định này. Trường hợp giá bán lẻ điện bình quân tính toán nằm ngoài khung giá, chỉ được xem xét điều chỉnh trong phạm vi khung giá do Thủ tướng Chính phủ quy định. Tập đoàn Điện lực Việt Nam được điều chỉnh tăng hoặc giảm giá bán lẻ điện bình quân trong phạm vi khung giá theo cơ chế quy định tại Điều 5 và Điều 6 Nghị định này.

Trường hợp giá bán lẻ điện bình quân cần điều chỉnh cao hơn giá bán lẻ điện bình quân hiện hành từ 10% trở lên, Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan kiểm tra, rà soát và báo cáo Chính phủ xem xét, cho ý kiến. Trường hợp cần thiết, Bộ Công Thương phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan báo cáo Ban Chỉ đạo điều hành giá trước khi báo cáo Chính phủ.

Việc điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân phải thực hiện công khai, minh bạch.

Giá bán lẻ điện bình quân

Nghị định quy định giá bán lẻ điện bình quân được lập trên cơ sở chi phí khâu phát điện, chi phí mua các dịch vụ truyền tải điện, phân phối - bán lẻ điện, điều độ vận hành hệ thống điện và điều hành giao dịch thị trường điện lực, chi phí dịch vụ phụ trợ hệ thống điện, chi phí điều hành - quản lý ngành, các khoản chi phí khác được phân bổ và chỉ bao gồm những chi phí phục vụ trực tiếp cho việc sản xuất, cung ứng điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam để đảm bảo khả năng vận hành, cung ứng điện và đáp ứng nhu cầu đầu tư theo kế hoạch được duyệt, trong đó chi phí các khâu có tính đến các khoản giảm trừ giá thành theo quy định.

Giá bán lẻ điện bình quân năm N(GBQ) được xác định theo công thức sau:

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 01/4/2025 (1)- Ảnh 4.

Trong đó:

CPĐ: Tổng chi phí khâu phát điện năm N (đồng); được xác định theo công thức sau:

CPĐ = CTTĐ + CĐMT + CBOT + CTTN + CNLTT + CNK

CDVPT: Tổng chi phí các nhà máy điện cung cấp dịch vụ phụ trợ hệ thống điện năm N (đồng), bao gồm cả chi phí chạy thử nghiệm của các nhà máy điện;

CTT: Tổng chi phí mua dịch vụ truyền tải điện năm N (đồng);

CPP-BL: Tổng chi phí phân phối - bán lẻ điện và lợi nhuận định mức năm N (đồng), bao gồm cả chi phí huy động các nguồn máy phát điện dự phòng của khách hàng sử dụng điện để bổ sung nguồn cung cho hệ thống điện quốc gia trong tình huống cấp bách đe dọa nghiêm trọng đến khả năng bảo đảm cung cấp điện;

C chung: Tổng chi phí điều hành - quản lý ngành và lợi nhuận định mức năm N (đồng);

CĐĐ: Tổng chi phí mua dịch vụ điều độ vận hành hệ thống điện và điều hành giao dịch thị trường điện lực năm N (đồng);

Ckhac: Tổng các chi phí khác chưa được tính vào giá điện, là các khoản chi phí được phép tính nhưng chưa tính vào giá điện, bao gồm cả chênh lệch tỷ giá đánh giá lại chưa được phân bổ, chênh lệch tỷ giá chưa được ghi nhận và thanh toán cho các nhà máy điện theo thỏa thuận tại hợp đồng mua bán điện, được tính toán phân bổ vào giá bán lẻ điện bình quân năm N (đồng);

ATP: Tổng sản lượng điện thương phẩm dự kiến cho năm N (kWh).

Quy định về điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân hằng năm

Nghị định quy định trên cơ sở kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện năm N do Bộ Công Thương ban hành, chi phí sản xuất, kinh doanh điện năm N-2 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, ước kết quả sản xuất kinh doanh điện năm N-1 (trong trường hợp chưa công bố chi phí sản xuất kinh doanh điện năm N-1), trước ngày 25 tháng 01 năm N Tập đoàn Điện lực Việt Nam tính toán giá bán lẻ điện bình quân theo công thức ở trên, thực hiện yêu cầu về hồ sơ theo quy định và thực hiện như sau:

a) Trường hợp giá bán lẻ điện bình quân tính toán giảm từ 1% trở lên so với giá bán lẻ điện bình quân hiện hành, Tập đoàn Điện lực Việt Nam có trách nhiệm giảm giá bán lẻ điện bình quân ở mức tương ứng. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện điều chỉnh, Tập đoàn Điện lực Việt Nam có trách nhiệm lập hồ sơ báo cáo Bộ Công Thương để kiểm tra, giám sát;

b) Trường hợp giá bán lẻ điện bình quân cần điều chỉnh tăng từ 2% đến dưới 5% so với giá bán lẻ điện bình quân hiện hành, Tập đoàn Điện lực Việt Nam lập hồ sơ phương án giá bán lẻ điện bình quân báo cáo Bộ Công Thương kiểm tra, rà soát và cho ý kiến. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ phương án giá bán lẻ điện bình quân của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Bộ Công Thương có trách nhiệm có ý kiến bằng văn bản. Tập đoàn Điện lực Việt Nam quyết định việc điều chỉnh tăng giá bán lẻ điện bình quân sau khi Bộ Công Thương có ý kiến. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện điều chỉnh, Tập đoàn Điện lực Việt Nam có trách nhiệm báo cáo Bộ Công Thương để giám sát;

c) Trường hợp giá bán lẻ điện bình quân cần điều chỉnh tăng từ 5% đến dưới 10% so với giá bán lẻ điện bình quân hiện hành, Tập đoàn Điện lực Việt Nam được phép điều chỉnh tăng giá bán lẻ điện bình quân ở mức tương ứng sau khi báo cáo và được Bộ Công Thương chấp thuận. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ phương án giá bán lẻ điện bình quân của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Bộ Công Thương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản để Tập đoàn Điện lực Việt Nam triển khai thực hiện. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện điều chỉnh, Tập đoàn Điện lực Việt Nam có trách nhiệm báo cáo Bộ Công Thương để giám sát;

d) Trường hợp giá bán lẻ điện bình quân cần điều chỉnh tăng từ 10% trở lên so với giá bán lẻ điện bình quân hiện hành, trên cơ sở hồ sơ phương án giá điện do Tập đoàn Điện lực Việt Nam trình, Bộ Công Thương chủ trì kiểm tra, rà soát và gửi lấy ý kiến các bộ, cơ quan liên quan. Trên cơ sở ý kiến góp ý các bộ, cơ quan liên quan, Bộ Công Thương tổng hợp, báo cáo Chính phủ xem xét, cho ý kiến. Trường hợp cần thiết, Bộ Công Thương phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan báo cáo Ban Chỉ đạo điều hành giá trước khi báo cáo Chính phủ.

Quy định về điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân trong năm

Nghị định quy định trước ngày 25 tháng đầu tiên quý II, quý III và quý IV, Tập đoàn Điện lực Việt Nam xác định sản lượng điện thương phẩm thực tế của quý trước và tổng sản lượng điện thương phẩm cộng dồn từ đầu năm, ước sản lượng điện thương phẩm các tháng còn lại trong năm; xác định chi phí phát điện của quý trước liền kề, chi phí phát điện cộng dồn từ đầu năm (bao gồm cả chi phí mua điện từ các nhà máy cung cấp dịch vụ phụ trợ), ước chi phí khâu phát điện các tháng còn lại trong năm theo thông số đầu vào cơ bản trong khâu phát điện và cập nhật các khoản chi phí khác chưa được tính vào giá bán lẻ điện bình quân để tính toán lại giá bán lẻ điện bình quân theo công thức trên (các thông số khác giữ nguyên không thay đổi), thực hiện yêu cầu về hồ sơ theo quy định và thực hiện như sau:

a) Trường hợp sau khi tính toán cập nhật, giá bán lẻ điện bình quân tính toán thấp hơn từ 1% trở lên so với giá bán lẻ điện bình quân hiện hành, Tập đoàn Điện lực Việt Nam có trách nhiệm điều chỉnh giảm giá bán lẻ điện bình quân ở mức tương ứng. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện điều chỉnh, Tập đoàn Điện lực Việt Nam có trách nhiệm lập hồ sơ báo cáo Bộ Công Thương để kiểm tra, giám sát;

b) Trường hợp sau khi tính toán cập nhật, giá bán lẻ điện bình quân cần điều chỉnh cao hơn so với giá bán lẻ điện bình quân hiện hành từ 2% đến dưới 5%, Tập đoàn Điện lực Việt Nam lập hồ sơ phương án giá bán lẻ điện bình quân báo cáo Bộ Công Thương kiểm tra, rà soát và cho ý kiến. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ phương án giá bán lẻ điện bình quân của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Bộ Công Thương có trách nhiệm có ý kiến bằng văn bản. Tập đoàn Điện lực Việt Nam quyết định việc điều chỉnh tăng giá bán lẻ điện bình quân sau khi Bộ Công Thương có ý kiến. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện điều chỉnh, Tập đoàn Điện lực Việt Nam có trách nhiệm báo cáo Bộ Công Thương để giám sát;

c) Trường hợp sau khi tính toán cập nhật, giá bán lẻ điện bình quân cần điều chỉnh cao hơn so với giá bán lẻ điện bình quân hiện hành từ 5% đến dưới 10%, Tập đoàn Điện lực Việt Nam được phép điều chỉnh tăng giá bán lẻ điện bình quân ở mức tương ứng sau khi báo cáo và được Bộ Công Thương chấp thuận. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ phương án giá bán lẻ điện bình quân của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Bộ Công Thương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản để Tập đoàn Điện lực Việt Nam triển khai thực hiện. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện điều chỉnh, Tập đoàn Điện lực Việt Nam có trách nhiệm báo cáo Bộ Công Thương để giám sát;

d) Trường hợp sau khi tính toán cập nhật, giá bán lẻ điện bình quân cần điều chỉnh cao hơn so với giá bán lẻ điện bình quân hiện hành từ 10% trở lên, trên cơ sở hồ sơ phương án giá bán lẻ điện bình quân do Tập đoàn Điện lực Việt Nam trình, Bộ Công Thương chủ trì kiểm tra, rà soát và gửi lấy ý kiến các bộ, cơ quan liên quan. Trên cơ sở ý kiến góp ý của các bộ, cơ quan liên quan, Bộ Công Thương tổng hợp, báo cáo Chính phủ xem xét, cho ý kiến. Trường hợp cần thiết, Bộ Công Thương phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan báo cáo Ban Chỉ đạo điều hành giá trước khi báo cáo Chính phủ.

Điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân 3 tháng/lần

Nghị định quy định rõ, trường hợp giá bán lẻ điện bình quân cần điều chỉnh giảm mà Tập đoàn Điện lực Việt Nam không điều chỉnh giảm, Bộ Công Thương có trách nhiệm yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam điều chỉnh giảm giá bán lẻ điện bình

quân. Tập đoàn Điện lực Việt Nam có trách nhiệm thực hiện theo yêu cầu của Bộ Công Thương trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu.

Nếu phát hiện có sai sót trong kết quả tính toán giá điện theo quy định, Bộ Công Thương có trách nhiệm yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam dừng điều chỉnh hoặc điều chỉnh lại giá bán lẻ điện bình quân. Tập đoàn Điện lực Việt Nam có trách nhiệm thực hiện theo yêu cầu của Bộ Công Thương trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu.

Theo quy định, thời gian điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân tối thiểu là 03 tháng kể từ lần điều chỉnh giá điện gần nhất.

Quy định về khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 01/4/2025 (1)- Ảnh 5.

Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn đã ký ban hành Quyết định số 07/2025/QĐ-TTg ngày 31/3/2025 quy định về khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân.

Quyết định này quy định về khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 50 của Luật Điện lực số 61/2024/QH15. Quyết định này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện lực và sử dụng điện.

Theo Quyết định, khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng) như sau:

Mức giá bán lẻ điện bình quân tối thiểu là 1.826,22 đồng/kWh;

Mức giá bán lẻ điện bình quân tối đa là 2.444,09 đồng/kWh.

Khi có biến động lớn về các thông số tính toán khung giá, chi phí sản xuất kinh doanh điện và yêu cầu phân bổ các khoản chi phí chưa được tính vào giá bán lẻ điện bình quân, Bộ Công Thương có trách nhiệm tính toán, điều chỉnh khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (ngày 31/3/2025).

Quyết định số 02/2023/QĐ-TTg ngày 3/2/2023 của Thủ tướng Chính phủ về khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân hết hiệu lực kể từ ngày Quyết định này có hiệu lực thi hành.

Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà làm việc với Thành phố Hà Nội về đôn đốc, thực hiện giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2025, công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông và xử lý ô nhiễm môi trường không khí

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 01/4/2025 (1)- Ảnh 6.

Hà Nội phấn đấu hoàn thành giải ngân 100% kế hoạch vốn đầu tư công

Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo số 143/TB-VPCP ngày 1/4/2025 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà làm việc với Thành phố Hà Nội về đôn đốc, thực hiện giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2025, công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông và xử lý ô nhiễm môi trường không khí.

Phấn đấu hoàn thành giải ngân 100% kế hoạch vốn đầu tư công được giao

Cụ thể, về tình hình thực hiện và giải ngân vốn đầu tư 03 tháng năm 2025, Phó Thủ tướng ghi nhận và biểu dương lãnh đạo Ủy ban nhân dân TP Hà Nội quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công. Thành phố đã chủ động xây dựng kế hoạch chi tiết tiến độ giải ngân, phân công trách nhiệm cụ thể cho các sở ngành, địa phương, chủ đầu tư dự án để phấn đấu hoàn thành giải ngân kế hoạch vốn đầu tư năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ giao là 87.130 tỷ đồng (gấp 1,13 lần so với kế hoạch năm 2024 và bằng 10,5% tổng số vốn của cả nước).

Tuy nhiên, đến ngày 24/3/2025 thành phố Hà Nội mới giải ngân được 5.052,29 tỷ đồng đạt 5,8% kế hoạch và thấp hơn mức bình quân chung của cả nước. Nguyên nhân chủ yếu do khó khăn, vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng (xác định nguồn gốc đất, giá đất, người dân chưa đồng thuận với phương án bồi thường); một số dự án sử dụng vốn ODA chưa hoàn thiện các thủ tục đầu tư, điều chỉnh chủ trương đầu tư, khác biệt về quy định pháp luật và hợp đồng quốc tế, tiêu chuẩn, đơn giá, định mức....

Để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư trong thời gian tới và phấn đấu hoàn thành giải ngân 100% kế hoạch được giao, Phó Thủ tướng cơ bản nhất trí với ý kiến của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, các Bộ, cơ quan liên quan và đề nghị Thành phố tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm:

Tập trung sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và các tổ chức, cá nhân để thực hiện quyết liệt, hiệu quả các Nghị quyết của Chính phủ, Công điện số 16/CĐ-TTg ngày 18/02/2025 và Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 01/3/2025 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công.

Thành phố quyết liệt thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, thúc đẩy tiến độ thi công các dự án, công trình trọng điểm. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện thủ tục chuẩn bị đầu tư, quyết định đầu tư, lựa chọn các nhà thầu các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, các dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn.

Đồng thời, xây dựng kế hoạch giải ngân đối với từng dự án; yêu cầu chủ đầu tư báo cáo tiến độ giải ngân của từng dự án theo từng tháng, quý, tuân thủ kế hoạch hoạch giải ngân theo từng tháng, quý. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tại hiện trường; việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công phải gắn với đảm bảo chất lượng công trình, dự án, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát, lãng phí, lợi ích nhóm.

Thành phố phải phân công lãnh đạo chịu trách nhiệm từng dự án, kiểm soát chặt quy mô, tiến độ, hiệu quả đầu tư; đưa kết quả giải ngân thành tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ để kiểm điểm, khen thưởng, xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời. Nghiêm túc coi kết quả giải ngân là một trong những căn cứ quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ năm 2025 của cá nhân người đứng đầu cơ quan, đơn vị và của tổ chức có liên quan; chủ động rà soát, kịp thời điều chuyển vốn của các dự án giải ngân chậm để bổ sung cho các dự án khác có khả năng giải ngân tốt và có nhu cầu đẩy nhanh tiến độ theo quy định, đặc biệt là các dự án quan trọng, cấp bách, các dự án hạ tầng chiến lược và các dự án kết nối vùng, kết nối quốc gia.

Hà Nội tăng cường các biện pháp kiểm soát, giảm ùn tắc giao thông

Về công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, lãnh đạo Thành phố đã chỉ đạo triển khai quyết liệt các nhóm giải pháp cấp bách như khắc phục tình trạng lưu lượng giao thông lớn gây quá tải hạ tầng; khắc phục xung đột giao thông tại các nút có mật độ giao thông cao; khắc phục nhanh các sự cố giao thông, ảnh hưởng của thời tiết mưa bão gây ra tình trạng ngập úng cục bộ; giải quyết tình trạng ùn tắc tại các khu vực cổng trường học, bệnh viện tập trung mật độ giao thông cao vào giờ cao điểm; tuyên truyền nâng cao ý thức chấp hành pháp luật giao thông cho người tham gia giao thông… Trong Quý I năm 2025, trên địa bàn Thành phố xảy ra 306 vụ tai nạn giao thông, làm 177 người chết, 199 người bị thương. So cùng kỳ năm 2024 giảm 81 vụ (-20,93%), tăng 01 người chết (+0,57%), giảm 115 người bị thương (-36,62%). Đã xử lý được 03/37 điểm ùn tắc giao thông.

Tuy nhiên tình hình ùn tắc giao thông trên địa bàn Thành phố vẫn còn diễn biến phức tạp, đặc biệt trong các thời điểm lễ, tết, khung giờ cao điểm tại các tuyến trục chính, vành đai ra vào nội đô khi nhu cầu đi lại tăng đột biến và lượng phương tiện quá tải so với kết cấu hạ tầng; còn có sự bất cập trong bố trí đèn tín hiệu giao thông và phân luồng giao thông tại một số nút giao có mật độ giao thông cao.

Trong thời gian tới, để đảm bảo trật tự, an toàn giao thông tại Hà Nội, Phó Thủ tướng giao Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội chủ trì, phối hợp với các Bộ: Công an, Xây dựng, Tư pháp, Nông nghiệp và Môi trường, Khoa học và Công nghệ tiếp tục triển khai đồng bộ những giải pháp trọng tâm.

Cụ thể, Thành phố phải khẩn trương xây dựng kế hoạch và triển khai các giải pháp thực hiện mô hình "Thành phố an toàn giao thông"; tăng cường các biện pháp kiểm soát và giảm ùn tắc giao thông; quy hoạch hợp lý các bãi đỗ xe (bãi đỗ xe ngầm, bãi đỗ xe thông minh) để giảm tình trạng đỗ xe tràn lan trên vỉa hè, lòng đường. Xây dựng lộ trình giảm dần xe máy trong nội đô, thu phí ô tô vào khu vực trung tâm trong giờ cao điểm để hạn chế số lượng xe cá nhân trên một số tuyến đường. Điều chỉnh đèn tín hiệu, làn đường linh hoạt theo khung giờ cao điểm để giảm ùn tắc. Quy hoạch khu vực đón/trả khách hợp lý, nhất là quanh khu vực bệnh viện, trường học để tránh ùn tắc.

Cùng với đó là phát triển hệ thống giao thông công cộng. Tăng cường mở thêm các tuyến xe buýt điện, tuyến đường sắt đô thị, nâng cao chất lượng dịch vụ để thu hút người dân sử dụng. Phát triển hệ thống giao thông thông minh, sử dụng AI để phân tích tình trạng giao thông và đề xuất phương án điều tiết hợp lý.

Tăng cường xử phạt vi phạm giao thông theo quy định của Nghị định số 168/2024/NĐ-CP ngày 26/12/2024 của Chính phủ. Tăng cường tuần tra kiểm soát, xử lý nghiêm các vi phạm như vượt đèn đỏ, đi sai làn, sử dụng rượu bia khi lái xe, đua xe lạng lách, đánh võng gây rối trật tự công cộng, xe ba bánh tự chế…

Thành phố nghiên cứu, đề xuất cơ quan có thẩm quyền đưa vào quy định bắt buộc kiểm tra định kỳ khí thải xe máy, loại bỏ xe cũ nát gây ô nhiễm và mất an toàn; nâng cao ý thức người tham gia giao thông. Tuyên truyền mạnh mẽ, xây dựng văn hóa giao thông, nhất là cho các đối tượng thanh niên, học sinh, sinh viên trong trường học. Sử dụng các kênh truyền thông như mạng xã hội, báo chí để nâng cao nhận thức cộng đồng về giao thông an toàn.

Phó Thủ tướng giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng khẩn trương hoàn thiện Đề án kiện toàn mô hình Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia và Ban An toàn giao thông các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 31/5/2025.

Kiểm soát, xử lý ô nhiễm đưa Hà Nội ngày càng xanh-sạch-đẹp hơn

Về kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường không khí, Phó Thủ tướng đề nghị Thành phố Hà Nội cần nghiên cứu, đánh giá chính xác các nguồn gây ô nhiễm không khí trên địa bàn thành phố để có giải pháp tổng thể kiểm soát, xử lý triệt để, chỉnh trang đô thị, góp phần đưa Hà Nội ngày càng xanh-sạch-đẹp hơn; trong đó lưu ý nếu nguyên nhân gây ô nhiễm là các nguồn phát thải từ các phương tiện giao thông đường bộ thì cần hạn chế bằng các công cụ điều tiết kinh tế, không phải cấm bằng các biện pháp hành chính.

Phó Thủ tướng giao Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường hỗ trợ thành phố Hà Nội ban hành các quy chuẩn khí thải đối với ô tô, xe máy; sớm triển khai kiểm định khí thải xe máy; tiếp tục kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm từ các công trường xây dựng, đốt rơm rạ, phụ phẩm nông nghiệp sau thu hoạch; xây dựng quy chế phối hợp liên tỉnh để quản lý chất lượng không khí của thành phố Hà Nội và các địa phương lân cận.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương xây dựng Đề án thành lập Ban Chỉ đạo về giải quyết ô nhiễm không khí cho Vùng Thủ đô, trong đó cần xác định rõ cơ chế hoạt động, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ, ngành, địa phương; xác định rõ các cơ chế, chính sách cần thiết và cấp có thẩm quyền phù hợp; nghiên cứu kỹ lưỡng kinh nghiệm quốc tế; báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong tháng 4/2025.

Nghiên cứu chính sách để thúc đẩy triển khai nhanh các dự án đường sắt

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 01/4/2025 (1)- Ảnh 7.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu nghiên cứu đề xuất cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy triển khai nhanh các dự án đường sắt.

Vừa qua, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ có tổng hợp bài viết của Báo điện tử Lao động ngày 27/3/2025 về “Đường sắt cao tốc, cơ hội để làm chủ công nghệ hiện đại” báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo.

Về vấn đề trên, tại văn bản số 2712/VPCP-CN ngày 1/4/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã giao Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà chỉ đạo Bộ trưởng Bộ Xây dựng nghiên cứu đề xuất cơ chế, chính sách đầy đủ để làm cơ sở thúc đẩy triển khai nhanh các dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, dự án đường sắt Lạng Sơn - Hà Nội, dự án đường sắt Hải Phòng - Hạ Long - Móng Cái.

UBND tỉnh Hòa Bình làm cơ quan chủ quản đầu tư đoạn tuyến cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu 

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 01/4/2025 (1)- Ảnh 8.

Đầu tư đoạn tuyến cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu - Ảnh minh họa

Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản 2547/VPCP-CN truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà về phương án đầu tư đoạn tuyến cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu.

Cụ thể, Phó Thủ tướng đồng ý giao UBND tỉnh Hòa Bình làm cơ quan chủ quản để quản lý, đầu tư xây dựng đoạn tuyến cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu (Km 0 - Km 19) với quy mô giai đoạn hoàn thiện theo tiêu chuẩn đường cao tốc 4 làn xe.

UBND tỉnh Hòa Bình khẩn trương triển khai công tác chuẩn bị đầu tư và tổ chức thực hiện dự án theo đúng quy định của pháp luật có liên quan, tránh thất thoát, lãng phí./.