• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 10/1/2025 (2)

(Chinhphu.vn) - Văn phòng Chính phủ vừa có Thông cáo báo chí chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 10/1/2025 (2).

10/01/2025 23:00
Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 10/1/2025 (2)- Ảnh 1.

Hải Phòng phấn đấu trở thành thành phố có trình độ phát triển cao trong nhóm các thành phố hàng đầu châu Á và thế giới.

Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 96-KL/TW ngày 30/9/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/1/2019 của Bộ Chính trị khóa XII về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 

Chính phủ ban hành Nghị quyết 7/NQ-CP ngày 10/1/2025 Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 96-KL/TW ngày 30/9/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/1/2019 của Bộ Chính trị khóa XII về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Nghị quyết nêu rõ trong thời gian tới, bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên, Chính phủ yêu cầu các bộ, các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND thành phố Hải Phòng và các địa phương trong cả nước cần cụ thể hóa và tổ chức triển khai 7 nhiệm vụ giải pháp sau:

1- Công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến thông tin và triển khai thực hiện Kết luận số 96-KL/TW

- Các bộ, cơ quan liên quan, thành phố Hải Phòng và các địa phương trong cả nước chủ động phối hợp tốt với các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền thông để nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến thông tin về Kết luận số 96-KL/TW và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận số 96-KL/TW đến đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động thuộc thẩm quyền quản lý và toàn thể nhân dân làm chuyển biến nhận thức và quyết tâm cao của các ngành, các cấp.

- Tiếp tục tập trung quán triệt, tuyên truyền thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 45-NQ/TW gắn với Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhằm tiếp tục tạo sự thống nhất cao, nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về vai trò, vị trí chiến lược, tầm quan trọng của thành phố Hải Phòng trong vùng đồng bằng Sông Hồng và cả nước.

- Nâng cao vai trò tổ chức đoàn thể, cộng đồng dân cư trong công tác quảng bá hình ảnh của Thành phố nhằm lan tỏa hình ảnh đẹp của thành phố; tăng cường công tác truyền thông, phổ biến, nâng cao nhận thức cho các tổ chức, cá nhân về các thế mạnh của thành phố...

2- Công tác hoàn thiện thể chế, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, cải cách thủ tục hành chính

- Rà soát, đánh giá các cơ chế, chính sách tại Nghị quyết số 35/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng; rà soát, đánh giá các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu và nội dung công việc cụ thể tại Nghị quyết số 108/NQ-CP ngày 16/11/2019 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ Chính trị để bảo đảm hoàn thành có chất lượng và đúng thời hạn.

- Tổ chức thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Đề án mô hình tổ chức chính quyền đô thị tại thành phố Hải Phòng và các đề án về sắp xếp, thành lập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của thành phố Hải Phòng giai đoạn 2023-2025...

3- Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, lấy khoa học và công nghệ, đổi mói sáng tạo là động lực chính đẩy nhanh chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng; trọng tâm là phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn

- Thành phố Hải Phòng phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Đẩy nhanh tiến độ việc triển khai có hiệu quả chuyển đổi số, áp dụng trí tuệ nhân tạo để phát triển các ngành, lĩnh vực sản xuất mới nhất là các ngành, nghề kinh tế mũi nhọn có giá trị gia tăng cao: Dịch vụ cảng biển, dịch vụ logistics điện tử, thương mại điện tử, du lịch,... đầu tư, xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số và xây dựng đô thị thông minh, đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp số để tạo động lực chính cho tăng trưởng kinh tế.

- Rà soát lại các chỉ tiêu phát triển của Thành phố, bảo đảm phù hợp với các quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; tập trung nguồn lực đầu tư hạ tầng logistics của Hải Phòng kết nối với các quốc gia, địa phương trong cả nước về đường bộ, đường biển, đường sắt, đường hàng không để xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng sớm trở thành trung tâm kết nối quốc tế, có dịch vụ logistics hiện đại.

- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản theo hướng sản xuất tập trung hàng hóa lớn, gắn với chế biến sâu và thị trường tiêu thụ, thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển vùng chuyên canh hàng hóa lớn, các cụm nông - công nghiệp - dịch vụ ở nông thôn, đẩy mạnh xây dựng thương hiệu nông sản, đặc biệt là các sản phẩm chủ lực của thành phố Hải Phòng. Xây dựng mô hình phát triển kinh tế nông nghiệp mới theo hướng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái, thân thiện với môi trường và tạo ra giá trị ra tăng lớn trên cơ sở hình thành các mô hình hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp, gắn với liên kết tiêu thụ nông sản hàng hóa...

- Tăng cường liên kết hình thành các cụm liên kết ngành, các khu kinh tế và khu công nghiệp; nghiên cứu xây dựng và thành lập Trung tâm đổi mới sáng tạo vùng đồng bằng sông Hồng tại thành phố Hải Phòng.

4- Tăng cường thu hút vốn đầu tư phát triển, tập trung đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm có tính kết nối liên vùng và đẩy mạnh liên kết vùng

- Tập trung thu hút các nguồn lực để tăng quy mô và hiệu quả đầu tư, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ. Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, trong đó vốn ngân sách trung ương đóng vai trò định hướng, dẫn dắt, kết hợp với ngân sách Thành phố và nguồn huy động xã hội hóa để đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng đồng bộ, hiện đại; ưu tiên đầu tư các công trình giao thông trọng điểm, động lực, có tính lan tỏa, kết nối vùng, kết nối các phương thức vận tải khác nhau phát huy lợi thế về cảng biển, hàng không, đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và các hành lang kết nối của vùng.

- Chủ động phối hợp với các địa phương trong vùng đồng bằng sông Hồng, nhất là các địa phương trong tam giác động lực phát triển kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh để rà soát, đề xuất điều chỉnh, bổ sung các cơ chế, chính sách hiện hành để hoàn thiện thể chế điều phối vùng đủ mạnh, để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, mang tính liên kết vùng. Nghiên cứu, đề xuất với Hội đồng điều phối vùng đồng bằng Sông Hồng các cơ chế, chính sách mới, đặc thù cho vùng để đáp ứng tốt hơn các điều kiện nhằm phát triển đột phá, nhằm khẳng định vai trò là một trong những cực tăng trưởng, động lực phát triển của vùng và cả nước.

5- Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, an sinh xã hội và công bằng xã hội; quản lý, khai thác tài nguyên; thu hút đầu tư phát triển du lịch; phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

- Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm quan điểm phát triển bền vững với phương châm "mọi người dân đều được hưởng thành quả phát triển, không ai bị bỏ lại phía sau". Thực hiện tốt chủ trương "Đầu tư cho an sinh, phúc lợi xã hội đi trước một bước so với phát triển kinh tế": Huy động mọi nguồn lực của nhà nước và xã hội để giúp người dân thoát nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, phấn đấu không còn hộ nghèo; thực hiện tốt các chế độ, chính sách với người có công, đối tượng bảo trợ xã hội; tiếp tục quan tâm chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là người dân tại hai huyện đảo Bạch Long Vĩ và Cát Hải.

- Đầu tư phát triển văn hóa, con người đồng bộ, ngang tầm với phát triển kinh tế; xây dựng và phát triển con người Hải Phòng toàn diện và đậm đà bản sắc người Hải Phòng đến gần hơn với bạn bè quốc tế. Bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa phi vật thể, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di sản tư liệu của Thành phố.

- Phát triển Hải Phòng trở thành trung tâm giáo dục và đào tạo chất lượng hàng đầu của vùng đồng bằng sông Hồng. Hiện đại hóa và mở rộng mạng lưới, quy mô giáo dục và đào tạo; quan tâm thu hút đầu tư, đẩy mạnh xã hội hóa trong giáo dục và đào tạo.

- Đầu tư phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để xây dựng Hải Phòng trở thành trọng điểm phát triển khoa học và công nghệ của cả nước. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại phục vụ phát triển kinh tế xanh, bảo vệ môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ, nhất là khoa học công nghệ biển.

6- Gắn phát triển kinh tế - xã hội với thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, giữ vững chủ quyền quốc gia; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại

- Xây dựng, củng cố thế trận toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân vững chắc; tiếp tục thực hiện hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trên địa bàn gắn với xây dựng các công trình phòng thủ theo thế trận quân sự khu vực phòng thủ đúng với vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, thế trận an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh trật tự và an toàn xã hội nhất là ở khu vực biển, đảo của thành phố, vừa đảm bảo quốc phòng, an ninh nhân dân, vừa phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

- Xây dựng thành phố Hải Phòng trở thành thành phố an toàn, thân thiện, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cuộc sống bình yên cho nhân dân thành phố; phấn đấu xây dựng Hải Phòng trở thành thành phố không ma túy.

7- Xây dựng chỉnh đốn đảng và hệ thống chính trị; tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị gắn với thực hiện mô hình chính quyền đô thị

- Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đoàn kết, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của các cấp ủy đảng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ nhất là đội ngũ chủ chốt, cấp chiến lược có đầy đủ phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, uy tín, nhiệt huyết, tư duy, tầm nhìn đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung, gắn với chế độ đãi ngộ thích hợp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

- Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền điện tử, xây dựng chính quyền số, nền kinh tế số, xã hội số, đô thị thông minh; xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, minh bạch, công khai trong mọi lĩnh vực...

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 10/1/2025 (2)- Ảnh 2.

Liên thông điện tử dữ liệu khám bệnh, chữa bệnh để giải quyết hưởng chế độ ốm đau.

Liên thông điện tử dữ liệu khám bệnh, chữa bệnh, dữ liệu dân cư, dữ liệu hộ tịch để giải quyết hưởng chế độ ốm đau, thai sản, trợ cấp dưỡng sức phục hồi sức khỏe

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 69/QĐ-TTg ngày 10/1/2025 về việc liên thông điện tử dữ liệu khám bệnh, chữa bệnh, dữ liệu dân cư, dữ liệu hộ tịch để giải quyết hưởng chế độ ốm đau, thai sản, trợ cấp dưỡng sức phục hồi sức khỏe.

Quyết định này quy định về việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành với Bảo hiểm xã hội Việt Nam để thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử trong giải quyết hưởng chế độ ốm đau, thai sản, trợ cấp dưỡng sức phục hồi sức khỏe theo quy định của pháp luật.

Dữ liệu chia sẻ và phương thức chia sẻ

Theo quy định, dữ liệu chia sẻ gồm:

1- Thông tin, dữ liệu về lĩnh vực y tế: Giấy ra viện, Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội, Giấy chứng sinh, Giấy chuyển viện, Bản tóm tắt hồ sơ bệnh án, Giấy báo tử, Biên bản giám định y khoa, Giấy chứng nhận nghỉ dưỡng thai.

2- Thông tin, dữ liệu về lĩnh vực tư pháp: Giấy khai sinh, Trích lục khai sinh, Giấy chứng tử, Trích lục khai tử.

3- Thông tin, dữ liệu về dân cư: Xác thực thông tin công dân và mối quan hệ gia đình của công dân.

Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu trực tuyến trên môi trường mạng giữa hệ thống thông tin của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các cơ quan chia sẻ, xác thực dữ liệu theo quy định tại Điều 23 Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 9/4/2020 của Chính phủ về việc quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước.

Nguyên tắc chia sẻ dữ liệu và thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu

Quyết định nêu rõ nguyên tắc chia sẻ dữ liệu và thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu phải đảm bảo theo đúng quy định tại Điều 5, Điều 6 Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 9/4/2020 của Chính phủ về việc quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước, Điều 3 Nghị định số 13/2023/NĐ-CP ngày 17/4/2023 của Chính phủ về bảo vệ dữ liệu cá nhân; đồng thời, đảm bảo các yêu cầu sau:

- Tuân thủ các quy định về bảo mật thông tin; các quy định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến dữ liệu; quyền riêng tư của tổ chức, cá nhân.

- Bảo đảm dữ liệu chia sẻ phải có khả năng gửi, nhận, lưu trữ, xử lý được bằng thiết bị số; dữ liệu chia sẻ được ký số theo quy định.

- Phù hợp với Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam.

Đảm bảo kết nối thông suốt

Bộ Y tế có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, Hội đồng giám định y khoa kết nối, chia sẻ dữ liệu về lĩnh vực y tế lên Cổng tiếp nhận dữ liệu Hệ thống thông tin Giám định bảo hiểm y tế của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Bộ Tư pháp kết nối, chia sẻ dữ liệu về lĩnh vực tư pháp.

Bộ Công an xác thực thông tin công dân và mối quan hệ gia đình của công dân.

Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, Hội đồng giám định y khoa chịu trách nhiệm về việc tạo lập chứng từ điện tử về khám bệnh, chữa bệnh theo quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp, chính xác của chứng từ; gửi chứng từ điện tử về khám bệnh, chữa bệnh lên Cổng tiếp nhận dữ liệu Hệ thống thông tin Giám định bảo hiểm y tế của Bảo hiểm xã hội Việt Nam ngay khi người bệnh xuất viện phù hợp với quy chế chuyên môn bệnh viện và quy định của pháp luật; lưu trữ và bảo đảm tính toàn vẹn của toàn bộ chứng từ điện tử trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; thực hiện các quy định pháp luật về bảo đảm an toàn, an ninh hệ thống dữ liệu điện tử.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam nâng cấp và hoàn thiện Hệ thống thông tin điện tử của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam để đảm bảo kết nối thông suốt liên thông điện tử dữ liệu được chia sẻ từ các bộ, ngành; phối hợp với các bộ, ngành và các cơ quan liên quan kết nối, chia sẻ dữ liệu để đảm bảo triển khai Quyết định này.

Đồng thời, Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành tài liệu, quy trình nghiệp vụ để hướng dẫn tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ công trực tuyến giải quyết hưởng chế độ ốm đau, thai sản, trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ trên Cổng dịch vụ công Quốc gia và Cổng dịch vụ công của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam; thực hiện việc kết nối, tích hợp để cung cấp dịch vụ công trực tuyến này trên Cổng dịch vụ công Quốc gia và Cổng dịch vụ công của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Văn phòng Chính phủ phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các cơ quan liên quan kết nối, tích hợp, cung cấp dịch vụ công "Giải quyết hưởng chế độ ốm đau, thai sản, trợ cấp dưỡng sức phục hồi sức khỏe" trên Cổng dịch vụ công Quốc gia.

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 10/1/2025 (2)- Ảnh 3.

Phó Thủ tướng Lê Thành Long yêu cầu nâng cao "năng suất và chất lượng" xây dựng pháp luật.

Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2025

Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo số 10/TB-VPCP ngày 10/1/2025 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2025.

Công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đạt nhiều kết quả nổi bật

Thông báo nêu: Trong năm 2024, Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp đã nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao, để đóng góp thiết thực, quan trọng cho sự phát triển và thành quả chung của đất nước. Trong đó, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật và những lĩnh vực khác của công tác tư pháp đạt được nhiều kết quả nổi bật.

Trong đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tiếp tục có nhiều đổi mới, có trọng tâm, trọng điểm, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác xây dựng thể chế; xác định rõ các nhiệm vụ cần ưu tiên để tập trung nguồn lực thực hiện, bám sát chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhất là tập trung xử lý các vấn đề vướng mắc phát sinh, khơi thông nguồn lực để phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp đã phát huy tốt vai trò tham mưu giúp Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền các cấp trong công tác xây dựng pháp luật, kịp thời thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh tình hình mới; từng bước đổi mới tư duy trong công tác xây dựng pháp luật theo chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm và đồng chí Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính. Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp đã cùng các bộ, cơ quan của Quốc hội, cơ quan liên quan khác nghiêm túc thực hiện công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật với tinh thần "chỉ bàn làm, không bàn lùi", tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn trong các lĩnh vực.

Công tác kiểm tra, rà soát, xử lý văn bản tiếp tục được triển khai kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm, góp phần nâng cao năng lực phản ứng chính sách, với nhiều kết quả nổi bật từ hoạt động của Ban Chỉ đạo rà soát, xử lý vướng mắc trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; kịp thời phát hiện, tham mưu sửa đổi, bổ sung các quy định mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập hoặc không còn phù hợp với thực tiễn.

Kết quả thi hành án dân sự về việc và về tiền cao nhất từ trước tới nay, với trên 621 nghìn việc được thi hành xong, thu được trên 117 nghìn tỷ đồng.

Các lĩnh vực quản lý nhà nước về hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, đăng ký giao dịch bảo đảm, lý lịch tư pháp, trợ giúp pháp lý, bồi thường nhà nước, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt nhiều kết quả cụ thể, có thể kể đến như: thể chế trong các lĩnh vực bổ trợ tư pháp tiếp tục được hoàn thiện; công tác chuyển đổi số trong hành chính tư pháp được tăng cường, gắn với triển khai Đề án 06; dẫn đầu trong các bộ, cơ quan ngang bộ về Chỉ số cải cách hành chính…

Công tác pháp luật quốc tế và hợp tác quốc tế về pháp luật, tư pháp đạt nhiều kết quả quan trọng. Bộ Tư pháp đã tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ của cơ quan đại diện pháp lý cho Chính phủ trong các tranh chấp đầu tư quốc tế. Hợp tác pháp luật và tư pháp với các quốc gia láng giềng như Trung Quốc có bước phát triển mới, với việc Bộ trưởng Bộ Tư pháp Trung Quốc sang thăm nước ta lần đầu tiên và hai Bộ đã ký Thỏa thuận về việc tổ chức Hội nghị tư pháp giữa các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc lần thứ nhất.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tư pháp thời gian qua vẫn còn những khó khăn, hạn chế, đặc biệt là về công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật khi thể chế đang là "điểm nghẽn của điểm nghẽn" như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã xác định; trong đó: (i) Hệ thống pháp luật còn nhiều tồn tại, hạn chế, cản trở sự phát triển, chưa thể chế hóa kịp thời, đầy đủ chủ trương, định hướng của Đảng, những vấn đề mới của thực tiễn phát sinh, hoặc đã được thể chế hóa nhưng tính khả thi không cao; (ii) Chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo; (iii) Việc phân cấp, phân quyền, chuyển đổi số trong công tác xây dựng pháp luật còn bất cập, chưa được chú trọng đúng mức; (iv) Kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa được thực hiện nghiêm; (v) Tình trạng nợ ban hành văn bản quy định chi tiết chưa được khắc phục triệt để; (vi) Hoạt động trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp như bổ trợ tư pháp, thi hành án dân sự, đào tạo pháp luật vẫn còn sai sót, vi phạm, biểu hiện "chạy theo thị trường", "cạnh tranh" không lành mạnh…

Những tồn tại, hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: (i) Nhận thức của một số cơ quan, địa phương về công tác tư pháp, thi hành án dân sự còn chưa đầy đủ; (ii) Công tác phối hợp chưa thật sự chặt chẽ, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; (iii) Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế còn hạn chế; (iv) Nguồn lực tài chính chưa đáp ứng yêu cầu…

Dự báo tình hình quốc tế, khu vực trong thời gian tới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường sẽ ảnh hưởng, tác động lớn tới sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Các nghị quyết, văn kiện của Đảng đã đề ra nhiều đường lối, chủ trương quan trọng liên quan đến Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp. Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp đã chỉ ra nhiều nhiệm vụ mà Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp cần tập trung thực hiện nhằm hoàn thiện thể chế, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Năm 2025 là năm diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của đất nước, trong đó có 03 nhiệm vụ quan trọng phải thực hiện đồng thời cùng lúc: chuẩn bị nội dung nhân sự cho Đại hội đảng các cấp; hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho cả nhiệm kỳ; và thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy. Cùng với những thời cơ, thuận lợi, bối cảnh này đặt công tác tư pháp, thi hành án dân sự trước những thời cơ, thách thức mới, với yêu cầu, đòi hỏi, trách nhiệm ngày càng cao.

Nâng cao "năng suất và chất lượng" xây dựng pháp luật

Phó Thủ tướng yêu cầu trong năm 2025 và thời gian tới, Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp cần tập trung nguồn lực thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, cụ thể:

Tham mưu cấp có thẩm quyền, bảo đảm chất lượng để trình Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị về "Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới".

Đổi mới tư duy quản lý, tư duy chính sách, tiếp tục phát huy vai trò tham mưu giúp Chính phủ trong công tác xây dựng thể chế nhằm kịp thời thể chế hóa đầy đủ và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các quan điểm, đường lối của Đảng và thực tiễn yêu cầu quản lý nhà nước để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Tập trung tối đa nguồn lực, tham mưu với Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, dứt khoát từ bỏ tư duy "không quản được thì cấm"; hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả, bảo đảm dân chủ, minh bạch, dễ áp dụng trên thực tế, tiết kiệm thời gian, chi phí, nâng cao "năng suất và chất lượng" xây dựng pháp luật; tăng cường cơ chế phản ứng chính sách; bảo đảm chi phí tuân thủ thấp, để pháp luật đến được với người dân và doanh nghiệp một cách thực chất; tăng cường phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính; nâng cao chất lượng tổ chức thi hành pháp luật. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo và xây dựng cơ chế phát hiện, tháo gỡ nhanh nhất các điểm nghẽn có nguyên nhân từ các quy định pháp luật.

Nghiêm túc, khẩn trương tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, đề xuất đổi mới, sắp xếp, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả với tinh thần "không làm không được, khó mấy cũng phải làm", "chỉ bàn làm, không bàn lùi", "gác lại lợi ích riêng, vì lợi ích chung", gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; tập trung tham mưu, giúp Chính phủ hướng dẫn, đôn đốc, theo dõi các bộ, cơ quan ngang bộ tổ chức rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, nhất là việc rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các luật, nghị quyết của Quốc hội để thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, kịp thời đề xuất phương án xử lý khó khăn, vướng mắc khi thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy.

Tiếp tục chú trọng và nâng cao chất lượng công tác tổ chức thi hành pháp luật, đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa tổ chức thi hành pháp luật với quá trình xây dựng pháp luật; phát huy vai trò, tiếp tục tập trung nguồn lực, trí tuệ giúp Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp xử lý tốt các vấn đề pháp lý trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, trong đó có việc phòng ngừa và giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế.

Tập trung nghiên cứu, thực hiện hiệu quả chiến lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và nguồn nhân lực pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ giai đoạn 2025 - 2030 và những năm tiếp theo, bảo đảm xứng tầm với yêu cầu ngày càng cao của công tác tư pháp trong giai đoạn mới.

Nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng pháp luật

Phó Thủ tướng đề nghị các bộ, ban, ngành, cơ quan liên quan tếp tục quan tâm, dành nhiều thời gian hơn nữa cho công tác xây dựng pháp luật; chỉ đạo sát sao việc rà soát, đề xuất xây dựng và bảo đảm tiến độ trình các dự án luật, dự thảo nghị quyết để kịp thời thể chế hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các Nghị quyết, chủ trương của Đảng, các vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn và xử lý các bất cập, vướng mắc trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

Các đồng chí Bộ trưởng, Trưởng ngành phải trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về chất lượng, tiến độ các dự án luật, pháp lệnh trình Chính phủ, Quốc hội; nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng pháp luật.

Các đồng chí Bộ trưởng, Trưởng ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh thực hiện nghiêm Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 21 tháng 5 năm 2024 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa và giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế và Quyết định số 14/2020/QĐ-TTg ngày 08 tháng 4 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế; cần cảnh giác, chủ động hơn trong phòng ngừa các tranh chấp đầu tư quốc tế; kịp thời giải quyết các kiến nghị, khiếu nại của nhà đầu tư.

Các bộ, ban, ngành Trung ương, địa phương quan tâm, phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp khẩn trương đổi mới về tổ chức, bộ máy, biên chế; đề xuất giải pháp đảm bảo nguồn lực và các điều kiện cần thiết khác nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả các mặt, lĩnh vực của công tác tư pháp.

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 10/1/2025 (2)- Ảnh 4.

Tỉnh Quảng Nam ưu tiên các dự án kết cấu hạ tầng tạo sức lan tỏa lớn, có tính kết nối liên vùng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông chiến lược của tỉnh.

Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050

Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 64/QĐ-TTg ngày 9/1/2025 ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Ưu tiên các dự án kết cấu hạ tầng tạo sức lan tỏa lớn, có tính kết nối liên vùng

Theo Kế hoạch, về xác định các dự án đầu tư công, tỉnh Quảng Nam ưu tiên các dự án kết cấu hạ tầng tạo sức lan tỏa lớn, có tính kết nối liên vùng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông chiến lược của tỉnh, bảo đảm đồng bộ, hiện đại, liên thông, tổng thể, thúc đẩy liên kết vùng, nội vùng của tỉnh; tăng cường hạ tầng kết nối các địa phương với Cảng hàng không quốc tế Chu Lai; hạ tầng y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, văn hóa, thể thao, an sinh xã hội; hạ tầng thông tin, truyền thông, chuyển đổi số, hạ tầng lưới điện, hạ tầng phòng cháy và chữa cháy, hạ tầng nghề cá... bảo đảm cơ cấu đầu tư hợp lý, hiệu quả giữa các vùng, lĩnh vực, vừa gia tăng động lực tăng trưởng, vừa bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp chênh lệch về khoảng cách giàu - nghèo.

Tiếp tục ưu tiên đầu tư hoàn thiện hạ tầng thủy lợi, đê điều, cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, xử lý rác thải và nghĩa trang; quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội khác đã được xác định trong Quy hoạch tỉnh; hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển xanh và phát triển bền vững; quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh.

Với dự án đầu tư sử dụng các nguồn vốn khác ngoài vốn đầu tư công, đẩy mạnh thu hút đầu tư mở rộng, nâng cao năng suất, hiệu quả các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh; trong đó, ưu tiên thu hút các nguồn lực đầu tư từ các thành phần kinh tế phát triển tập trung theo đúng định hướng 02 vùng kinh tế - 02 cụm động lực - 03 hành lang phát triển.

Các ngành, lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư gồm: hạ tầng giao thông vận tải; hạ tầng logistics, hệ thống sân bay, cảng biển, bến cảng đường thủy nội địa; nguồn điện và lưới điện, hệ thống cấp nước sạch; tài nguyên, môi trường, xử lý chất thải; khai thác khoáng sản; hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp; các khu nông, lâm nghiệp, thủy sản ứng dụng công nghệ cao; các khu đô thị, khu du lịch, khu thể thao; cơ sở hạ tầng giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, thông tin và truyền thông, an sinh xã hội.

Dự kiến cần huy động tổng số vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 630.000 tỷ đồng

Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng GRDP bình quân hằng năm trên 8% trong thời kỳ quy hoạch 2021 - 2030, dự kiến cần huy động tổng số vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 630.000 tỷ đồng trong toàn thời kỳ quy hoạch, cụ thể:

Thời kỳ

Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội

Nguồn vốn

khu vực nhà nước

Nguồn vốn khu vực ngoài nhà nước

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

(Tỷ đồng)

(Tỷ đồng)

(%)

(Tỷ đồng)

(%)

(Tỷ đồng)

(%)

2021 - 2030

630.000

121.720

19,3

417.940

66,3

90.340

14,4

2021 - 2025

208.000

45.760

22,0

135.200

65,0

27.040

13,0

2026 - 2030

422.000

75.960

18,0

282.740

67,0

63.300

15,0

Chú trọng thu hút đầu tư có chọn lọc, các dự án đầu tư nước ngoài

Một trong những giải pháp được Kế hoạch đưa ra là giải pháp về thu hút đầu tư phát triển. Trong đó, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên những dự án phát huy hiệu quả cao, các dự án quan trọng, cấp bách, có tính đột phá, lan tỏa; nâng cao tỷ lệ giải ngân gắn với chất lượng công trình và hoàn thành đúng tiến độ các dự án làm cơ sở để thu hút các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách theo phương châm "lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư".

Chú trọng thu hút đầu tư có chọn lọc, các dự án đầu tư nước ngoài, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi giá trị sản xuất và cung ứng trong khu vực và toàn cầu. Ưu tiên kêu gọi các tập đoàn kinh tế lớn, các nhà đầu tư có thương hiệu, có tiềm lực tài chính, có khả năng đầu tư ổn định, lâu dài vào các lĩnh vực mà tỉnh ưu tiên, khuyến khích đầu tư, tạo động lực lan tỏa thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp khác trong tỉnh.

Về nguồn nhân lực, xây dựng cơ chế chính sách cụ thể, đột phá nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và lao động có kỹ năng cho phát triển kinh tế - xã hội; tập trung nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế, đặc biệt đối với các ngành trọng điểm về công nghiệp chế biến, dược liệu, dược phẩm, mỹ phẩm, chế tạo, xây dựng, du lịch, hàng không, cảng biển.

Thu hút, kêu gọi đầu tư theo mô hình đô thị đại học để trở thành một trong những trung tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao hàng đầu đối với một số lĩnh vực trọng điểm của tỉnh,...

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 10/1/2025 (2)- Ảnh 5.

Kiểm soát nhập khẩu hạt cây có chứa chất ma túy.

Kiểm soát nhập khẩu thuốc Spravato và hạt cây có chứa chất ma túy 

Tại Công văn số 296/VPCP-KGVX ngày 10/1/2025, Phó Thủ tướng Lê Thành Long có ý kiến chỉ đạo về kiểm soát nhập khẩu thuốc Spravato và hạt cây có chứa chất ma túy.

Cụ thể, xét báo cáo của Bộ Công an về một số nội dung liên quan đến việc quản lý thuốc Spravato chứa hoạt chất Esketamine và hạt của cây có chứa chất ma túy, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long giao các Bộ: Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu báo cáo, đề xuất của Bộ Công an để kịp thời có biện pháp phù hợp theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và quy định pháp luật, không để thất thoát, lợi dụng các mặt hàng thuốc, sản phẩm hạt của cây có chứa chất ma túy vào mục đích bất hợp pháp; kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền đối với những vấn đề vượt thẩm quyền./.