Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 18/8/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các giải pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt trong tình hình mới.
Cần nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật trong việc quản lý, điều hành chạy tàu, cảnh báo tự động tại các đường ngang, các lối đi tự mở.
Chỉ thị nêu: Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng sự vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương, công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt đã có nhiều chuyển biến tích cực, tai nạn giao thông liên quan đến đường sắt được kiềm chế, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác đường sắt phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, tình hình trật tự an toàn giao thông đường sắt vẫn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây tai nạn giao thông, năm 2024 đã xảy ra 120 vụ tai nạn giao thông đường sắt, làm chết 83 người, bị thương 26 người; xảy ra 98 vụ ném đất, đá lên tàu, làm bị thương 01 người, vỡ 107 cửa kính các loại, ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông, trật tự an toàn xã hội; trong 7 tháng đầu năm 2025 đã xảy ra 65 vụ tai nạn giao thông đường sắt, làm chết 45 người, bị thương 16 người. Ngày 10 tháng 3 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 358/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đảm bảo trật tự hành lang an toàn giao thông và xử lý dứt điểm lối đi tự mở qua đường sắt, lộ trình hết năm 2025 xóa bỏ hoàn toàn lối đi tự mở; tuy nhiên tính đến tháng 6 năm 2025 tiến độ thực hiện chậm, đến nay toàn quốc mới thực hiện xóa bỏ được 1.237/4.065 lối đi tự mở (đạt 30,4%), giải tỏa 566 điểm vi phạm hành lang đường sắt, còn lại 11.569 điểm chưa được giải tỏa.
Nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông đường sắt do người điều khiển phương tiện đường bộ thiếu chú ý quan sát, không chấp hành hiệu lệnh của biển báo, đèn tín hiệu khi qua đường ngang, lối đi tự mở; dừng, đỗ, quay đầu xe trong phạm vi đường ngang; vi phạm các quy tắc an toàn giao thông đường sắt… Bên cạnh đó, chính quyền một số địa phương chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm, chưa quyết liệt trong việc xử lý vi phạm hành lang đường sắt, xóa bỏ lối đi tự mở qua đường sắt; công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và chính quyền địa phương trong bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường sắt tại một số nơi chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; ý thức chấp hành pháp luật về đường sắt của một bộ phận người dân chưa cao; hạ tầng giao thông đường sắt được đầu tư xây dựng đã lâu, chưa được nâng cấp, sửa chữa đồng bộ; các chế tài xử lý vi phạm về lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp từ Trung ương tới địa phương để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, cần thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp từ Trung ương tới địa phương để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, giảm tai nạn giao thông đường sắt, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu bộ trưởng các Bộ: Xây dựng, Công an, Y tế, Khoa học và Công nghệ, Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có đường sắt đi qua và các cơ quan liên quan phải xác định công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt là nhiệm vụ quan trọng, từng bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao rà soát các chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ được phân công để thực hiện hiệu quả các chủ trương chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt, chú trọng công tác xây dựng, ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Đường sắt (sửa đổi) được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 9; các giải pháp cần thực hiện quyết liệt, kiên trì, thường xuyên để bảo đảm an toàn cho hoạt động của đường sắt và hoạt động của nhân dân các khu vực có đường sắt đi qua; quá trình thực hiện phải cụ thể, chi tiết phù hợp với đặc điểm của từng địa bàn; phân công rõ nhiệm vụ chủ trì, phối hợp, có cơ chế kiểm soát tiến độ, chất lượng các nhiệm vụ; xem xét, xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị, chính quyền địa phương thiếu quan tâm, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát hoặc thực hiện không đầy đủ chức trách, nhiệm vụ trong phạm vi quản lý để xảy ra mất an toàn giao thông, tai nạn giao thông đường sắt.
Xử lý các hành vi xâm phạm kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt
Bộ trưởng Bộ Xây dựng chỉ đạo tăng cường công tác quản lý nhà nước trong hoạt động vận tải đường sắt, tổ chức thực hiện nghiêm các quy định về điều kiện kinh doanh đường sắt; phối hợp với chính quyền địa phương rà soát các vị trí xung yếu trên các tuyến đường sắt, các cầu, hầm đường sắt, đường ngang, phát hiện các điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông đường sắt, các bất cập về tổ chức giao thông tại vị trí đường ngang, đề ra biện pháp khắc phục về kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt. Tăng cường kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật, các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt đối với nhân viên đường sắt trực tiếp phục vụ chạy tàu, chất lượng sửa chữa, bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt…; chủ động phối hợp với chính quyền địa phương, lực lượng Công an tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm hành lang an toàn giao thông đường sắt, vi phạm tại đường ngang, lối đi tự mở qua đường sắt theo quy định; chủ động cung cấp các vị trí đường ngang, giao cắt với đường sắt cho các tổ chức cung cấp dịch vụ thông tin dẫn đường tích hợp vào cơ sở dữ liệu để cảnh báo người sử dụng trước khi đi qua giao cắt với đường sắt.
Các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng giao thông đường sắt, các dự án trọng điểm. Chỉ đạo các đơn vị chức năng có giải pháp bảo đảm an toàn cho người tham gia giao thông trong quá trình thi công, cải tạo, sửa chữa hạ tầng giao thông đường sắt.
Bộ Xây dựng tăng cường kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt; rà soát, bổ sung đầy đủ các biển báo hiệu, vạch dừng, gờ, gồ giảm tốc tại các điểm giao cắt giữa đường bộ và đường sắt trong phạm vi quản lý và kết nối tín hiệu đường bộ, đường sắt tại các đường ngang trên quốc lộ để cảnh báo, hướng dẫn người dân qua, lại an toàn; phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương tổ chức thực hiện việc xóa bỏ lối đi tự mở, xử lý vi phạm hành lang an toàn giao thông đường sắt, xây dựng đường gom…; khẩn trương tổ chức thực hiện hoàn thành việc sửa chữa, bổ sung đầy đủ hệ thống thông tin tín hiệu tại 184 đường ngang có người gác.
Xử lý nghiêm các vụ tai nạn giao thông đường sắt
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng Bộ Công an chỉ đạo công an các đơn vị, địa phương xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch chuyên đề về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt; tăng cường kiểm tra người điều khiển phương tiện đường bộ tham gia giao thông tại đường ngang, lối đi tự mở; kiểm tra việc chấp hành các quy định về an toàn đối với phương tiện đường sắt, về tiêu chuẩn, điều kiện và việc chấp hành quy trình tác nghiệp của các chức danh nhân viên đường sắt trực tiếp phục vụ chạy tàu... để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định.
Cơ quan Cảnh sát điều tra xử lý nghiêm các vụ tai nạn giao thông đường sắt đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra ngoài xác định nguyên nhân trực tiếp gây tai nạn giao thông phải xác định, làm rõ nguyên nhân có liên quan đến trách nhiệm của các tập thể, cá nhân trong công tác quản lý nhà nước và thực thi công vụ phục vụ công tác phòng ngừa và xử lý tai nạn giao thông chính xác, khách quan, đúng quy định pháp luật; kịp thời phát hiện và kiến nghị khắc phục các tồn tại, bất cập về kết cấu hạ tầng đường sắt, phương tiện đường sắt, nhân viên đường sắt, công tác quản lý, khai thác, vận hành giao thông đường sắt…
Thực hiện nghiêm các quy định về điều kiện kinh doanh vận tải đường sắt
Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Đường sắt Việt Nam chủ động phối hợp với chính quyền địa phương, đơn vị chức năng thực hiện rà soát các vị trí xung yếu trên các tuyến đường sắt, các cầu, hầm đường sắt, đường ngang, phát hiện các điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông đường sắt, các bất cập về tổ chức giao thông tại vị trí đường ngang, lối đi tự mở.
Tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định về điều kiện kinh doanh vận tải đường sắt, kinh doanh kết cấu hạ tầng đường sắt. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình, quy phạm an toàn giao thông đường sắt của đội ngũ nhân viên đường sắt trực tiếp phục vụ chạy tàu; thường xuyên kiểm tra an toàn của phương tiện đường sắt, hoạt động của các thiết bị an toàn trên hệ thống đường ngang; nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật trong việc quản lý, điều hành chạy tàu, cảnh báo tự động tại các đường ngang, các lối đi tự mở; phối hợp chính quyền địa phương bảo vệ hành lang an toàn giao thông đường sắt, hoàn thành xử lý các lối đi tự mở qua đường sắt thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh kết cấu hạ tầng đường sắt và quy định của pháp luật.
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí và hệ thống thông tin cơ sở tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đường sắt thường xuyên, rộng rãi đến người dân; cảnh báo các nguy cơ, hậu quả tai nạn giao thông tại lối đi tự mở, đường ngang, hậu quả, tác hại của việc ném đất, đá lên tàu; chỉ đạo các tổ chức cung cấp dịch vụ thông tin dẫn đường tích hợp các vị trí đường ngang, giao cắt với đường sắt vào cơ sở dữ liệu để cảnh báo người sử dụng trước khi đi qua giao cắt với đường sắt.
Xử lý triệt để điểm đen, điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông đường sắt
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (có đường sắt đi qua) chỉ đạo cơ quan, đơn vị trực thuộc tăng cường công tác quản lý nhà nước, xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể, ưu tiên kinh phí đầu tư để xử lý triệt để điểm đen, điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông đường sắt, lối đi tự mở; kiên quyết thu hồi diện tích đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân trong phạm vi hành lang an toàn giao thông đường sắt tại các vị trí điểm đen, điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông theo quy định pháp luật; thường xuyên đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra Ủy ban nhân dân cấp xã, các ngành trực thuộc trong việc xử lý, giải tỏa các công trình vi phạm lấn chiếm, sử dụng trái phép hành lang an toàn giao thông đường sắt và kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt.
Các tỉnh, thành phố chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể phối hợp với các cơ quan thông tin, báo chí, truyền thông tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường sắt cho lứa tuổi học sinh và các bậc phụ huynh; tổ chức ký cam kết của các hộ dân sinh sống dọc đường sắt với chính quyền cơ sở về đảm bảo an toàn giao thông đường bộ - đường sắt; nhân rộng các mô hình "Em yêu đường sắt quê em", "Đoạn đường ông cháu cùng chăm"…, tạo thói quen chấp hành các quy định của pháp luật về giao thông đường sắt...
Chính phủ ban hành Nghị định số 225/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư.
Quy định mới về chỉ định nhà đầu tư và giải quyết kiến nghị trong đấu thầu
Theo đó, Nghị định số 225/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 23/2024/NĐ-CP ngày 27/02/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án thuộc trường hợp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực; Nghị định số 115/2024/NĐ-CP ngày 16/9/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất.
Quy trình chỉ định nhà đầu tư
Đáng chú ý, Nghị định số 225/2025/NĐ-CP đã bổ sung 02 chương quan trọng liên quan đến việc chỉ định nhà đầu tư và giải quyết kiến nghị trong đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Cụ thể:
Nghị định số 225/2025/NĐ-CP đã bổ sung Chương IVb "Chỉ định nhà đầu tư" gồm Điều 44c và Điều 44d vào sau Chương IVa của Nghị định 115/2024/NĐ-CP, quy định rõ về loại dự án và quy trình áp dụng hình thức chỉ định nhà đầu tư. Chi tiết như sau:
Điều 44c. Dự án áp dụng hình thức chỉ định nhà đầu tư
Các dự án áp dụng hình thức chỉ định nhà đầu tư được quy định tại khoản 2a Điều 34 của Luật Đấu thầu, gồm:
a) Dự án do nhà đầu tư đề xuất mà nhà đầu tư đó có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đối với công nghệ thuộc danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược theo quy định của pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, pháp luật về công nghệ cao;
b) Dự án cần tiếp tục lựa chọn nhà đầu tư trước đó đã triển khai hạ tầng số, nền tảng số nhằm bảo đảm tương thích, đồng bộ, kết nối về kỹ thuật;
c) Dự án cần đẩy nhanh tiến độ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm lợi ích quốc gia do nhà đầu tư đề xuất, gồm:
c.1) Dự án cần thực hiện để ngăn chặn, khắc phục ngay hoặc để xử lý kịp thời hậu quả gây ra do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ, sự cố, thảm họa hoặc sự kiện bất khả kháng khác;
c.2) Dự án quan trọng quốc gia được áp dụng hình thức chỉ định nhà đầu tư theo Nghị quyết của Quốc hội;
c.3) Dự án thuộc trường hợp chỉ định nhà đầu tư theo quy định của pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực;
c.4) Dự án cần đẩy nhanh tiến độ nhằm phục vụ lễ kỷ niệm, sự kiện cấp quốc gia, cấp tỉnh;
c.5) Dự án có hoạt động lấn biển nhằm tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của địa phương theo chỉ đạo tại Nghị quyết của Ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, văn bản thông báo ý kiến, kết luận của Ban Thường vụ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;
c.6) Dự án phát triển đô thị theo mô hình TOD thuộc phạm vi dự án đường sắt quốc gia theo quy định của pháp luật về đường sắt.
2. Hằng năm, cơ quan có thẩm quyền báo cáo kết quả triển khai dự án do nhà đầu tư được chỉ định thực hiện, bảo đảm dự án được thực hiện đáp ứng yêu cầu về tiến độ, chất lượng, hiệu quả, gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại báo cáo tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu.
Điều 44d. Quy trình chỉ định nhà đầu tư
1. Quy trình chỉ định nhà đầu tư
a) Quy trình thông thường được áp dụng đối với dự án do cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư (đối với dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư) hoặc hồ sơ đề xuất thực hiện dự án (đối với dự án không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư);
b) Quy trình chỉ định rút gọn được áp dụng đối với dự án do nhà đầu tư đề xuất.
2. Quy trình chỉ định nhà đầu tư thông thường theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này được thực hiện như sau:
a) Căn cứ quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc văn bản phê duyệt thông tin dự án đầu tư, cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc, trực thuộc báo cáo cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng hình thức chỉ định nhà đầu tư;
b) Lập hồ sơ yêu cầu:
Bên mời thầu tổ chức lập hồ sơ yêu cầu gồm nội dung quy định tại khoản 2 Điều 14 của Nghị định này, trừ nội dung yêu cầu nhà đầu tư thực hiện bảo đảm dự thầu.
Người có thẩm quyền, bên mời thầu (trong trường hợp được ủy quyền phê duyệt hồ sơ yêu cầu) không phải thẩm định hồ sơ yêu cầu; trường hợp cần thẩm định thì tổ chức thẩm định hồ sơ yêu cầu theo quy định tại Điều 54 của Nghị định này trước khi phê duyệt;
c) Phê duyệt hồ sơ yêu cầu:
Người có thẩm quyền, bên mời thầu phê duyệt hồ sơ yêu cầu, trong đó xác định nhà đầu tư được đề nghị chỉ định và gửi hồ sơ yêu cầu cho nhà đầu tư;
d) Chuẩn bị và nộp hồ sơ đề xuất:
Nhà đầu tư được đề nghị chỉ định chuẩn bị và nộp hồ sơ đề xuất theo yêu cầu của hồ sơ yêu cầu;
đ) Đánh giá hồ sơ đề xuất:
Bên mời thầu tổ chức đánh giá hồ sơ dự thầu theo phương pháp và tiêu chuẩn đánh giá quy định tại hồ sơ yêu cầu.
Trong quá trình đánh giá hồ sơ đề xuất, nhà đầu tư được làm rõ, sửa đổi, bổ sung hồ sơ đề xuất;
e) Phê duyệt và công khai kết quả chỉ định nhà đầu tư:
Cơ quan có thẩm quyền không phải thẩm định kết quả chỉ định nhà đầu tư; trường hợp cần thẩm định thì tổ chức thẩm định theo quy định tại Điều 55 của Nghị định này trước khi phê duyệt.
Việc phê duyệt kết quả chỉ định nhà đầu tư thực hiện theo quy định tại Điều 28 của Nghị định này mà không phải phê duyệt danh sách nhà đầu tư đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật, không phải xếp hạng nhà đầu tư.
Việc công khai kết quả chỉ định nhà đầu tư thực hiện theo quy định tại Điều 29 của Nghị định này;
g) Đàm phán, hoàn thiện, ký kết và công khai hợp đồng dự án:
Bên mời thầu và nhà đầu tư tổ chức đàm phán, hoàn thiện hợp đồng theo quy định tại Điều 30 của Nghị định này. Việc ký kết và đăng tải thông tin chủ yếu của hợp đồng dự án thực hiện theo quy định tại Điều 31 của Nghị định này.
Trường hợp đàm phán, hoàn thiện hợp đồng với nhà đầu tư không thành công, bên mời thầu báo cáo người có thẩm quyền xem xét, quyết định hủy thầu theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 17 của Luật Đấu thầu.
3. Quy trình chỉ định nhà đầu tư rút gọn theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được thực hiện như sau:
a) Sau khi có quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc văn bản phê duyệt thông tin dự án, bên mời thầu trình cơ quan có thẩm quyền dự thảo quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư kèm theo dự thảo hợp đồng, trong đó thuyết minh căn cứ áp dụng hình thức chỉ định nhà đầu tư;
b) Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kết quả chỉ định nhà đầu tư; quyết định gồm nội dung quy định tại các điểm a, b và d khoản 2 Điều 28 của Nghị định này. Bên mời thầu đăng tải kết quả chỉ định nhà đầu tư theo quy định tại Điều 29 Nghị định này;
c) Căn cứ quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc văn bản phê duyệt thông tin dự án, quyết định phê duyệt kết quả chỉ định nhà đầu tư, bên mời thầu xây dựng yêu cầu về năng lực và yêu cầu nhà đầu tư đề xuất về hiệu quả sử dụng đất hoặc hiệu quả đầu tư phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương. Bên mời thầu đánh giá đề xuất của nhà đầu tư theo phương pháp đạt, không đạt.
Trường hợp nhà đầu tư đáp ứng đầy đủ theo yêu cầu, bên mời thầu đàm phán, hoàn thiện dự thảo hợp đồng với nhà đầu tư, các bên liên quan (nếu có) về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện dự án và nội dung cần thiết khác (nếu có). Trường hợp đàm phán, hoàn thiện hợp đồng với nhà đầu tư không thành công, bên mời thầu báo cáo cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định hủy thầu theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 17 của Luật Đấu thầu;
d) Căn cứ kết quả đàm phán, việc ký kết và đăng tải thông tin chủ yếu của hợp đồng được thực hiện theo quy định tại Điều 31 của Nghị định này.
4. Đối với dự án quy định tại điểm c khoản 1 Điều 44c của Nghị định này có yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, nhà đầu tư tổ chức triển khai đầu tư xây dựng công trình dự án đồng thời với thủ tục đàm phán, hoàn thiện và ký kết hợp đồng.
5. Đối với dự án quy định tại khoản 1 Điều 44c của Nghị định này phát sinh yêu cầu về bảo đảm quốc phòng, an ninh theo chỉ đạo tại nghị quyết, kết luận, văn bản chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước thì việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 44b của Nghị định này.
Xử lý kiến nghị đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư trong 07 ngày làm việc
Nghị định số 225/2025/NĐ-CP cũng đã bổ sung Chương VIIIa "giải quyết kiến nghị trong đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư" gồm các Điều 61b, 61c và 61d vào sau Chương VIII của Nghị định 115/2024/NĐ-CP, trong đó quy định rõ điều kiện xem xét, giải quyết kiến nghị; quy trình xử lý kiến nghị. Cụ thể như sau:
Điều 61b. Điều kiện xem xét, giải quyết kiến nghị
1. Đối với kiến nghị về các vấn đề trước khi có thông báo kết quả lựa chọn nhà đầu tư, để được xem xét, giải quyết thì đơn kiến nghị phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
a) Đối với kiến nghị về nội dung hồ sơ mời thầu, đơn kiến nghị là đơn của các cơ quan, tổ chức quan tâm đến dự án; đối với các nội dung khác về quá trình tổ chức lựa chọn nhà đầu tư, đơn kiến nghị phải là của nhà đầu tư tham dự thầu;
b) Đơn kiến nghị phải có chữ ký, đóng dấu (nếu có) được đại diện hợp pháp của nhà đầu tư, cơ quan, tổ chức gửi đơn hoặc được ký số thông qua tài khoản, gửi lên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia theo lộ trình lựa chọn nhà đầu tư qua mạng;
c) Nhà đầu tư phải gửi đơn kiến nghị đến bên mời thầu, người có thẩm quyền trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 61c của Nghị định này.
2. Đối với kiến nghị về kết quả lựa chọn nhà đầu tư, để được xem xét, giải quyết kiến nghị, nhà đầu tư phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
a) Đơn kiến nghị phải là của nhà đầu tư tham dự thầu;
b) Đơn kiến nghị phải có chữ ký, đóng dấu (nếu có) của người đại diện hợp pháp của nhà đầu tư tham dự thầu hoặc được ký số thông qua tài khoản, gửi lên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia theo lộ trình lựa chọn nhà đầu tư qua mạng;
c) Nội dung kiến nghị chưa được nhà đầu tư khởi kiện, khiếu nại, tố cáo;
d) Nội dung kiến nghị liên quan đến kết quả đánh giá hồ sơ dự thầu;
đ) Chi phí giải quyết kiến nghị được nhà đầu tư có kiến nghị nộp cho bộ phận thường trực giúp việc cho Chủ tịch Hội đồng giải quyết kiến nghị (sau đây gọi là bộ phận thường trực). Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn kiến nghị của nhà đầu tư, bộ phận thường trực có trách nhiệm gửi thông báo cho nhà đầu tư về mức chi phí giải quyết kiến nghị, cách thức nộp chi phí giải quyết kiến nghị. Nhà đầu tư có trách nhiệm nộp chi phí giải quyết kiến nghị trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của bộ phận thường trực. Trường hợp nhà đầu tư không nộp chi phí giải quyết kiến nghị thì nhà đầu tư được coi là không đáp ứng điều kiện để xem xét, giải quyết kiến nghị;
e) Nhà đầu tư phải gửi đơn kiến nghị đến người có thẩm quyền, bộ phận thường trực trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 61c của Nghị định này.
3. Trường hợp kiến nghị của nhà đầu tư, cơ quan, tổ chức không đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người có trách nhiệm giải quyết kiến nghị thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư, cơ quan, tổ chức về việc không xem xét, giải quyết kiến nghị.
Điều 61c. Quy trình giải quyết kiến nghị
1. Việc giải quyết kiến nghị về các vấn đề trước khi có thông báo kết quả lựa chọn nhà đầu tư được thực hiện theo quy trình sau đây:
a) Nhà đầu tư, cơ quan, tổ chức gửi đơn kiến nghị về hồ sơ mời thầu đến bên mời thầu trước thời điểm đóng thầu. Nhà đầu tư gửi đơn kiến nghị các nội dung khác về quá trình tổ chức lựa chọn nhà đầu tư đến bên mời thầu trước khi có thông báo kết quả lựa chọn nhà đầu tư.
b) Bên mời thầu phải có văn bản giải quyết kiến nghị gửi đến nhà đầu tư, cơ quan, tổ chức trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị của nhà đầu tư, cơ quan, tổ chức.
c) Trường hợp nhà đầu tư, cơ quan, tổ chức không đồng ý với kết quả giải quyết kiến nghị hoặc quá thời hạn quy định tại điểm b khoản này bên mời thầu không có văn bản giải quyết kiến nghị thì nhà đầu tư, cơ quan, tổ chức có quyền gửi đơn kiến nghị đến người có thẩm quyền trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày hết hạn trả lời hoặc ngày nhận được đơn giải quyết kiến nghị của bên mời thầu;
d) Người có thẩm quyền có văn bản giải quyết kiến nghị gửi đến nhà đầu tư, cơ quan, tổ chức trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn kiến nghị của nhà đầu tư, cơ quan, tổ chức.
2. Việc giải quyết kiến nghị về kết quả lựa chọn nhà đầu tư được thực hiện theo quy trình sau đây:
a) Nhà đầu tư gửi đơn kiến nghị đến bên mời thầu trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết quả lựa chọn nhà đầu tư được đăng tải lên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia;
b) Bên mời thầu có văn bản giải quyết kiến nghị gửi đến nhà đầu tư trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn kiến nghị của nhà đầu tư;
c) Trường hợp nhà đầu tư không đồng ý với kết quả giải quyết kiến nghị hoặc quá thời hạn quy định tại điểm b khoản này bên mời thầu không có văn bản giải quyết kiến nghị thì nhà đầu tư có quyền gửi văn bản kiến nghị đến bộ phận thường trực của Hội đồng giải quyết kiến nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 61d của Nghị định này trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày hết hạn giải quyết kiến nghị hoặc ngày nhận được đơn giải quyết kiến nghị của nhà đầu tư.
Doanh nghiệp khoa học công nghệ, khởi nghiệp sáng tạo được hưởng mức ưu đãi 5% khi đánh giá hồ sơ dự thầu
Ngoài ra, Nghị định số 225/2025/NĐ-CP cũng đã bổ sung điểm c và điểm d vào sau điểm b khoản 1 Điều 6 Nghị định 115/2024/NĐ-CP về đối tượng được hưởng ưu đãi và mức ưu đãi trong lựa chọn nhà đầu tư theo hướng ưu tiên doanh nghiệp công nghệ, khởi nghiệp sáng tạo trong nước và nhà đầu tư nước ngoài cam kết chuyển giao công nghệ. Cụ thể:
c) Nhà đầu tư là doanh nghiệp khoa học và công nghệ; doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo được cơ quan có thẩm quyền công nhận; trung tâm đổi mới sáng tạo; tổ chức, doanh nghiệp đã được cấp Giấy chứng nhận là doanh nghiệp công nghệ cao, cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao theo quy định của pháp luật về công nghệ cao được hưởng mức ưu đãi 5% khi đánh giá hồ sơ dự thầu;
d) Nhà đầu tư nước ngoài có cam kết chuyển giao công nghệ cho nhà đầu tư, đối tác trong nước được hưởng mức ưu đãi 2% khi đánh giá hồ sơ dự thầu.
Việc bổ sung 2 điểm này nhằm khuyến khích hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo phát triển đồng thời nâng cao chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài chuyển giao công nghệ để cùng phát triển năng lực của doanh nghiệp Việt Nam.
Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng vừa ký Quyết định số 1751/QĐ-TTg ngày 18/8/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược dữ liệu tại Trung tâm dữ liệu quốc gia.
Xây dựng, phát triển Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia, thực hiện điều phối, phân tích, phát triển khai thác đổi mới sáng tạo, hợp tác quốc tế về dữ liệu phục vụ cho phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là xây dựng, hình thành và phát triển Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia, thực hiện điều phối, phân tích, phát triển khai thác đổi mới sáng tạo, hợp tác quốc tế về dữ liệu phục vụ cho phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; hình thành các hệ thống dữ liệu tin cậy, ổn định, an toàn, bảo mật của Nhà nước và doanh nghiệp; tạo ra nhiều giá trị mới, sản phẩm dịch vụ mới và động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội.
100% các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành kết nối, tích hợp, chia sẻ đồng bộ
Mục tiêu đến năm 2030, 100% các cơ sở dữ liệu quốc gia, các cơ sở dữ liệu chuyên ngành kết nối, tích hợp, chia sẻ đồng bộ với Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia theo quy định bảo đảm tổng hợp toàn diện các thông tin, dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành; kết nối liên thông dữ liệu với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành, các hệ thống thông tin trong và ngoài nước.
100% dữ liệu liên quan đến công dân Việt Nam và người nước ngoài sinh sống, có hoạt động tại Việt Nam được đồng bộ về Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia.
Bổ sung các dịch vụ, ứng dụng tiện ích cho người dân
Đồng thời, phát triển thêm các dịch vụ, ứng dụng dùng chung khác cho các bộ, ban, ngành, địa phương; bổ sung các dịch vụ, ứng dụng tiện ích cho người dân, doanh nghiệp dựa trên mức độ trưởng thành của dữ liệu; kết nối, trao đổi, chia sẻ thông tin, dữ liệu với các tổ chức, doanh nghiệp của các nước trên thế giới theo nhu cầu.
Phấn đấu tối thiểu 90% thủ tục hành chính các bộ, ngành, địa phương có đủ điều kiện, được cung cấp trực tuyến; người dân, doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục hành chính không phải cung cấp lại các thông tin, giấy tờ, tài liệu đã được chấp nhận khi thực hiện thành công thủ tục hành chính trước đó.
100% dịch vụ công trực tuyến được triển khai tập trung trên Cổng Dịch vụ công quốc gia
Bảo đảm 100% các dịch vụ công trực tuyến của quốc gia được triển khai tập trung trên Cổng Dịch vụ công quốc gia tại Trung tâm dữ liệu quốc gia để trở thành điểm "một cửa số" duy nhất.
100% người dân và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến và 90% số lượng người dân, doanh nghiệp tham gia hệ thống Chính phủ điện tử được xác thực định danh điện tử thông suốt, hợp nhất trên tất cả các hệ thống của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương.
Đến hết năm 2025, hoàn thành xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia số 01
Để đạt được những mục tiêu trên, Chiến lược đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thực hiện đến hết năm 2025 gồm: Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý và hoàn thành xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia số 01 và các hệ thống, nền tảng công nghệ cốt lõi, xây dựng dự án hạ tầng truyền dẫn dữ liệu quốc gia kết nối liên vùng, phục vụ an ninh dữ liệu, phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số Việt Nam; bảo đảm khả năng lưu trữ dữ liệu lớn, tích hợp, kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành để phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của chính quyền các cấp, giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến, phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng thời, hình thành Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia từ: kho dữ liệu dùng chung, kho dữ liệu chuyên ngành, kho dữ liệu tổng hợp, kho dữ liệu danh mục dùng chung, kho dữ liệu mở và các kho dữ liệu có liên quan.
Quy hoạch phân kho lưu trữ, thiết kế chi tiết việc tổ chức, lưu trữ, tích hợp, quản lý dữ liệu và các chính sách an ninh an toàn thông tin phù hợp với đối tượng, phương thức truy cập, quyền khai thác đối với từng loại dữ liệu.
Trung tâm dữ liệu quốc gia thực hiện kết nối, chia sẻ, điều phối dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành bảo đảm nguyên tắc "đúng - đủ - sạch - sống - thống nhất - dùng chung" phục vụ giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến, phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số theo quy định của pháp luật.
Triển khai các hệ thống phục vụ quản lý, khai thác dữ liệu chuyên ngành cho bộ, ngành, địa phương và cung cấp các hệ thống tiện ích cho người dân, doanh nghiệp tại Trung tâm dữ liệu quốc gia; xây dựng, triển khai Cổng dữ liệu quốc gia; triển khai Sàn dữ liệu; hệ thống phục vụ xác nhận, xác thực dữ liệu; các sản phẩm, dịch vụ về dữ liệu trên cơ sở ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia từng bước tạo lập thị trường dữ liệu minh bạch phục vụ người dân, doanh nghiệp...
Hình thành các khu công nghệ số tập trung gắn liền với Trung tâm dữ liệu quốc gia
Đến hết năm 2030, hoàn thành và đưa vào hoạt động Trung tâm dữ liệu quốc gia số 02 (với đầy đủ các hạng mục đã được phê duyệt, có khả năng lưu trữ dữ liệu lớn, bảo đảm an ninh, an toàn), kết nối, tích hợp với tất cả các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành và các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương theo quy định.
Hoàn thành và đưa vào hoạt động Trung tâm dữ liệu quốc gia số 03 và các Trung tâm dữ liệu quốc gia khác sẽ được xây dựng không cùng khu vực với Trung tâm dữ liệu quốc gia số 01 và 02 để bảo đảm dự phòng trong trường hợp thiên tai, thảm họa, chiến tranh.
Hình thành các khu công nghệ số tập trung gắn liền với Trung tâm dữ liệu quốc gia, dự án hạ tầng truyền dẫn dữ liệu quốc gia bảo đảm an ninh dữ liệu, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, thúc đẩy hợp tác quốc tế, bảo đảm an ninh dữ liệu.
Kết nối trao đổi dữ liệu trong khu vực và quốc tế phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh, phòng chống tội phạm; nghiên cứu phát triển các chiến lược thu hút nguồn tài trợ, viện trợ cho Quỹ phát triển dữ liệu quốc gia...
Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản số 7697/VPCP-NN ngày 18/8/2025 truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính liên quan đến việc xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Trước đó, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ đã có báo cáo thông tin, báo chí và dư luận liên quan đến công tác chỉ đạo, điều hành, trong đó có nội dung liên quan đến giải pháp để gạo Việt giữ được vị trí xuất khẩu thứ hai thế giới.
Theo nội dung báo cáo, mới đây, Hiệp hội Xuất khẩu gạo Thái Lan cho biết, Việt Nam đã vượt qua Thái Lan để thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới trong 6 tháng đầu năm nay. Thành tích này đang phản ánh ngày càng rõ sự chuyển dịch từ "xuất khẩu nhiều" sang "xuất khẩu có giá trị", tạo lợi thế cạnh tranh rõ rệt. Tuy nhiên, để duy trì vị thế, ngành gạo Việt vẫn cần tháo gỡ một số nút thắt, đối mặt với những rủi ro đáng kể: tác động của xâm nhập mặn, hạn hán và biến đổi khí hậu, khiến sản lượng tiềm ẩn nhiều biến động; các chính sách điều hành xuất khẩu và rào cản kỹ thuật từ các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản vẫn là thách thức lớn. Trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu yếu đi hoặc đối thủ hạ giá mạnh, lợi thế cạnh tranh về giá của Việt Nam sẽ thu hẹp. Điều này đòi hỏi chiến lược dài hạn, chuyển trọng tâm từ tăng sản lượng sang nâng cao giá trị sản phẩm. Về dài hạn, hướng đi bền vững phải là chuyển sang xuất khẩu gạo chất lượng cao, gạo hữu cơ, truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu quốc gia. Nếu không, vị trí số hai hiện tại có thể chỉ là một "đỉnh sóng" ngắn ngủi giữa chu kỳ dư cung và biến động khí hậu toàn cầu.
Về vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghiên cứu thông tin nêu trên; chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan có kế hoạch cụ thể xử lý ngay theo thẩm quyền; tranh thủ các cơ hội, triển khai "thần tốc" hơn nữa việc xuất khẩu gạo, nhất là gạo chất lượng cao, gạo hữu cơ, gắn với hệ thống truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu gạo quốc gia để nâng cao giá trị gia tăng trong xuất khẩu gạo. Đẩy nhanh việc thực hiện Đề án phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030./.