• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 24/10/2024 (3)

(Chinhphu.vn) - Văn phòng Chính phủ vừa có Thông cáo báo chí chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 24/10/2024 (3).

24/10/2024 23:51

Quy định việc lập dự toán, quản lý sử dụng chi thường xuyên ngân sách nhà nước để mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 138/2024/NĐ-CP ngày 24/10/2024 quy định việc lập dự toán, quản lý sử dụng chi thường xuyên ngân sách nhà nước (NSNN) để mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng.

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 24/10/2024 (3)- Ảnh 1.

Các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng chi thường xuyên NSNN đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm

Nguyên tắc bố trí dự toán, quản lý sử dụng chi thường xuyên NSNN

Nghị định quy định: Việc bố trí kinh phí chi thường xuyên ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng được thực hiện theo nguyên tắc không trùng lắp với các nhiệm vụ có cùng nội dung của đơn vị đã được bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn theo quy định của pháp luật về đầu tư công, cần phải thực hiện ngay trong năm ngân sách để đảm bảo hoạt động thường xuyên của cơ quan, đơn vị và phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ và dự toán kinh phí thực hiện theo quy định của pháp luật.

Các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm rà soát, đề xuất đảm bảo đúng nguyên tắc và chịu trách nhiệm toàn diện về hồ sơ đề nghị bố trí kinh phí chi thường xuyên để thực hiện các nhiệm vụ theo quy định tại Nghị định này.

Việc lập dự toán, phân bổ dự toán, quản lý sử dụng về quyết toán kinh phí chi thường xuyên thực hiện nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị, cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, pháp luật về xây dựng và pháp luật có liên quan.

Đối với nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị phải căn cứ quy định về tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, trang thiết bị phục vụ hoạt động của cơ quan, đơn vị theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công và pháp luật của ngành, lĩnh vực có liên quan, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền phê duyệt, kế hoạch được phê duyệt để lập dự toán trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định; việc phân bổ dự toán kinh phí chi thường xuyên thực hiện nhiệm vụ không được vượt quá tổng dự toán chi thường xuyên được giao của cơ quan, đơn vị trong năm ngân sách.

Đối với nhiệm vụ cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng phải căn cứ quy định về tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công và pháp luật của ngành, lĩnh vực có liên quan để lập dự toán trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định, tối đa không quá 15 tỷ đồng/nhiệm vụ; việc phân bổ dự toán kinh phí chi thường xuyên để thực hiện nhiệm vụ không được vượt quá tổng dự toán chi thường xuyên được giao của cơ quan, đơn vị trong năm ngân sách.

Các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng, giải ngân kinh phí thực hiện các nhiệm vụ thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định ngay trong năm ngân sách đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm; việc chuyển nguồn kinh phí thực hiện nhiệm vụ (nếu có) được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 64 Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn.

Việc bố trí kinh phí chi thường xuyên ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó đảm bảo.

Lập dự toán kinh phí mua sắm phải thuyết minh chi tiết về tài sản, trang thiết bị còn thiếu

Nghị định nêu rõ: Căn cứ tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, trang thiết bị phục vụ hoạt động của cơ quan, đơn vị theo quy định tại Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, quy định tại Quyết định số 50/2017/QĐ-TTg ngày 31/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị, quy định pháp luật của ngành, lĩnh vực có liên quan, các cơ quan, đơn vị trực tiếp sử dụng và quản lý tài sản thuyết minh chi tiết về tài sản, trang thiết bị có nhu cầu mua sắm để bổ sung, thay mới hoặc sửa chữa, nâng cấp tài sản, trang thiết bị trong năm kế hoạch từ nguồn chi thường xuyên ngân sách nhà nước để trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, phê duyệt nhiệm vụ và dự toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ làm cơ sở để xây dựng dự toán ngân sách của năm kế hoạch.

Nội dung nhiệm vụ cần thuyết minh chi tiết về tài sản, trang thiết bị còn thiếu so với tiêu chuẩn, định mức trang bị tài sản, trang thiết bị phục vụ hoạt động của cơ quan đơn vị được cấp có thẩm quyền phê duyệt; sự cần thiết, lý do thực hiện và xác định rõ nhu cầu bổ sung, thay mới, hoặc sửa chữa, nâng cấp tài sản, trang thiết bị trong năm kế hoạch theo quy định; dự kiến kinh phí thực hiện từ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước.

Thẩm quyền quyết định phê duyệt nhiệm vụ và dự toán kinh phí mua sắm tài sản, trang thiết bị

Đối với nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị phục vụ hoạt động của của các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của bộ, cơ quan trung ương:

Đối với nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị có tổng dự toán kinh phí thực hiện dưới 45 tỷ đồng/nhiệm vụ: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương (Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương) quyết định hoặc quy định thẩm quyền quyết định phê duyệt nhiệm vụ và dự toán kinh phí mua sắm.

Đối với nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị có tổng dự toán kinh phí thực hiện từ 45 tỷ đồng đến dưới 120 tỷ đồng/nhiệm vụ: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương quyết định phê duyệt nhiệm vụ và dự toán kinh phí mua sắm.

Đối với nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị có tổng dự toán kinh phí thực hiện từ 120 tỷ đồng/nhiệm vụ trở lên:

Trường hợp không thể sắp xếp, bố trí hoặc điều chỉnh trong kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được giao, các bộ, cơ quan trung ương chịu trách nhiệm đề xuất nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị sử dụng kinh phí chi thường xuyên, lấy ý kiến của các bộ quản lý ngành, lĩnh vực có liên quan về sự cần thiết, mục tiêu, phạm vi, quy mô của nhiệm vụ, đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật và phù hợp với nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định này; trên cơ sở đó tổng hợp, chịu trách nhiệm toàn diện xác định sự cần thiết, mục tiêu và dự toán kinh phí của nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị để gửi Bộ Tài chính tổng hợp.

Đối với nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị sử dụng nguồn chi thường xuyên lĩnh vực khoa học và công nghệ; bảo vệ môi trường: Sau khi lấy ý kiến của các bộ quản lý ngành, lĩnh vực có liên quan, các bộ, cơ quan trung ương tổng hợp gửi Bộ Khoa học và Công nghệ (đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ), Bộ Tài nguyên và Môi trường (đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường) để rà soát, tổng hợp, gửi Bộ Tài chính theo quy định của pháp luật về khoa học và công nghệ và bảo vệ môi trường.

Trên cơ sở quyết định phê duyệt chủ trương thực hiện nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương quyết định phê duyệt nhiệm vụ và dự toán kinh phí mua sắm hàng năm.

Đối với nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị phục vụ hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của địa phương:

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định hoặc quy định thẩm quyền quyết định phê duyệt nhiệm vụ và dự toán kinh phí thực hiện mua sắm tài sản, trang thiết bị đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn tại địa phương.

Tăng cường công tác quản lý tài sản công tại các tổ chức hội

Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Chỉ thị số 40/CT-TTg ngày 24/10/2024 của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tăng cường công tác quản lý tài sản công tại các tổ chức hội.

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 24/10/2024 (3)- Ảnh 2.

Tăng cường công tác quản lý tài sản công tại các tổ chức hội - Ảnh minh họa

Để tăng cường công tác quản lý, sử dụng tài sản công của các tổ chức hoạt động theo quy định của pháp luật về hội nhằm nâng cao trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, Ban lãnh đạo của các tổ chức trong công tác quản lý tài sản công giao cho các hội quản lý, sử dụng, góp phần quản lý chặt chẽ, có hiệu quả tài sản công, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Ban lãnh đạo của các tổ chức hội tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau đây:

Rà soát lại việc giao, quản lý, sử dụng và bố trí tài sản công cho các hội

Về công tác quản lý tài sản công giao cho hội, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, cơ quan trung ương của các tổ chức (tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật về hội) (sau đây gọi là bộ, cơ quan trung ương), UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là UBND cấp tỉnh) thực hiện rà soát lại việc giao, quản lý, sử dụng và bố trí tài sản công cho các hội đảm bảo đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trường hợp sau khi rà soát, việc giao, quản lý, sử dụng và bố trí tài sản công chưa đúng quy định thì báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

UBND cấp tỉnh rà soát lại việc quản lý, sử dụng đất của các tổ chức hội để đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của Luật Đất đai năm 2024 và các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2024.

Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật về hội tự đảm bảo tài sản để phục vụ hoạt động. Nhà nước chỉ hỗ trợ kinh phí thực hiện nhiệm vụ được giao. Đối với tài sản là trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp tại tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật về hội được Nhà nước giao hoặc được hình thành từ ngân sách nhà nước là tài sản công. Việc quản lý, sử dụng, xử lý tài sản công thực hiện theo quy định về chế độ quản lý, sử dụng tài sản công tại cơ quan nhà nước; bảo vệ tài sản công theo quy định của pháp luật và thực hiện việc bảo dưỡng, sửa chữa tài sản công bằng kinh phí của tổ chức.

Chấm dứt tình trạng sử dụng nhà, đất chưa đúng quy định

Về việc sắp xếp lại, xử lý nhà, đất giao cho các hội là tài sản công, bộ, cơ quan trung ương, UBND cấp tỉnh, Ban lãnh đạo của các tổ chức chỉ đạo thực hiện:

Đối với các cơ sở nhà, đất thuộc phạm vi sắp xếp theo quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2017, Nghị định số 67/2021/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ (kể cả các cơ sở nhà, đất trước đây không thuộc phạm vi sắp xếp, nay thuộc phạm vi sắp xếp lại, xử lý theo quy định của Chính phủ) thì thực hiện rà soát, lập báo cáo kê khai, đề xuất phương án sắp xếp, tổ chức kiểm tra hiện trạng, báo cáo cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt phương án theo quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP, Nghị định số 67/2021/NĐ-CP của Chính phủ.

Đối với các cơ sở nhà, đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì rà soát phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất đã được cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt, chức năng, nhiệm vụ, nhu cầu sử dụng làm trụ sở làm việc, biên chế được cấp có thẩm quyền phê duyệt và việc bố trí sử dụng nhà, đất hiện nay (trong đó có việc cho thuê văn phòng) theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, pháp luật về đất đai và pháp luật có liên quan đảm bảo việc quản lý, sử dụng đúng mục đích, công năng sử dụng, tiết kiệm, hiệu quả, tránh thất thoát, lãng phí. Trường hợp sau khi rà soát mà không còn nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích thì căn cứ hình thức xử lý nhà, đất quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP, Nghị định số 67/2021/NĐ-CP của Chính phủ để đề xuất thay đổi phương án theo quy định của pháp luật.

Rà soát việc sử dụng tài sản công của các hội vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Thực hiện nộp toàn bộ số tiền thu được từ việc cho thuê, kinh doanh, liên doanh, liên kết vào ngân sách nhà nước trong trường hợp sử dụng không đúng quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công và chỉ đạo quản lý tài sản công (đất đai, trụ sở, tài sản khác) theo đúng quy định pháp luật.

Thực hiện chấm dứt tình trạng sử dụng nhà, đất chưa đúng quy định (cho thuê, cho mượn, bố trí nhà ở, đất ở, sử dụng sai mục đích...) để đảm bảo việc sử dụng hiệu quả, tránh để thất thoát, lãng phí nhà, đất.

Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc quản lý, sử dụng tài sản công

Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc quản lý, sử dụng tài sản công; thanh tra việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công của các hội; triển khai quyết liệt Nghị định số 63/2019/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2019, Nghị định số 102/2021/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công. Xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật liên quan đối với hội thuộc thẩm quyền quản lý có hành vi vi phạm trong quản lý, sử dụng tài sản công; thực hiện thu hồi nhà, đất trong trường hợp sử dụng không đúng quy định theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, pháp luật về đất đai, pháp luật khác có liên quan.

Chỉ đạo cập nhật kịp thời, đầy đủ dữ liệu về nhà, đất của các hội là tài sản công vào Cơ sở dữ liệu Quốc gia về tài sản công; thực hiện chế độ báo cáo công khai tài sản công của các hội theo quy định của pháp luật.

Chỉ đạo ban hành quy chế Quản lý, sử dụng tài sản công của các hội; trong đó quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của từng bộ phận, cá nhân có liên quan đến việc sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết, trách nhiệm bàn giao tài sản công khi thay đổi tổ chức bộ máy, thay đổi người đứng đầu; xử lý đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm Quy chế; các nội dung khác có liên quan đến quản lý, sử dụng tài sản công các hội.

Thủ tướng Chính phủ giao các cơ quan có chức năng kiểm tra, thanh tra của các bộ, cơ quan trung ương, địa phương thực hiện thanh tra, kiểm tra đối với việc quản lý, sử dụng tài sản công của các tổ chức hoạt động theo quy định của pháp luật về hội thuộc phạm vi quản lý. Các tổ chức hội có hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công tại các hội thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại cho Nhà nước thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Bộ Tài chính nghiên cứu, hoàn thiện chế độ quản lý, sử dụng tài sản công tại các tổ chức để tăng cường công tác quản lý, nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng tài sản công.

Bộ, cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực trong phạm vi nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tăng cường kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản công tại các tổ chức hội thuộc phạm vi quản lý nhà nước của mình.

Kết luận Hội nghị trực tuyến triển khai mở rộng thí điểm Sổ sức khỏe điện tử và cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua VNeID trên toàn quốc

Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo số 487/TB-VPCP ngày 24/10/2024 kết luận Hội nghị trực tuyến triển khai mở rộng thí điểm Sổ sức khỏe điện tử và cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua VNeID trên toàn quốc.

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 24/10/2024 (3)- Ảnh 3.

Sau năm 2025, mỗi người dân Việt Nam đều sở hữu một Sổ sức khoẻ điện tử trên ứng dụng VNeID

Thông báo kết luận nêu rõ, kết quả triển khai Sổ sức khỏe điện tử đã tạo lập được 32,1 triệu Sổ sức khỏe cho người dân, trong đó 14,6 triệu công dân đã tích hợp Sổ sức khỏe điện tử qua VNeID.

Trong hơn 04 tháng triển khai thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp tại Hà Nội và Thừa Thiên Huế đã tiếp nhận hơn 50 nghìn hồ sơ cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua VNeID, chiếm hơn 70% tổng số hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp của 02 địa phương.

Việc triển khai thí điểm 02 ứng dụng nêu trên thể hiện 3 phù hợp (phù hợp chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ về chuyển đổi số quốc gia, lấy người dân làm trung tâm, làm chủ thể; phù hợp lợi ích, nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp; phù hợp với điều kiện thực tiễn) và mang lại 03 lợi ích lớn: (i) Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC), giảm chí phí, thời gian tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp; tạo thuận lợi cho người dân trong các hoạt động kinh tế, xã hội; (ii) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; (iii) Khẳng định một cách mạnh mẽ về những thành quả của chuyển đổi số mang lại; tiếp tục khẳng định cam kết của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương về đẩy mạnh chuyển đổi số và tiếp thêm niềm tin, động lực cho những thành công trong hoạt động chuyển đổi số thời gian tới.

Bên cạnh những kết quả trên, vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Dữ liệu chưa thực sự "đúng, đủ, sạch, sống"; tính liên thông, chia sẻ, đồng bộ hiệu quả chưa cao; ứng dụng VNeID có lúc vận hành chưa ổn định; các hệ thống vận hành chưa được thông suốt, còn nhiều bất cập giữa Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của địa phương, ứng dụng VNeID và các phần mềm nghiệp vụ; việc phát triển các tiện ích trên nền tảng VNeID còn chậm; việc phổ cập vẫn gặp nhiều khó khăn, nhất là là vùng sâu, vùng xa...

Người dân, doanh nghiệp phải được hưởng lợi ích thiết thực từ chuyển đổi số mang lại

Về quan điểm chỉ đạo, điều hành, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số yêu cầu yêu cầu các bộ, các ngành, các địa phương tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu "đúng, đủ, sạch, sống" để kết nối, chia sẻ dữ liệu với nhau và kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá, hoạch định, xây dựng chính sách; xác định mục tiêu, đưa ra nhiệm vụ, giải pháp dựa trên cơ sở dữ liệu.

Hạ tầng phải thông suốt, quản trị và nhân lực phải thông minh, tất cả vì sự chăm lo đời sống, sức khỏe, tính mạng của người dân và tạo sự thuận lợi của người dân trong các giao dịch với cơ quan hành chính Nhà nước. Tránh đầu tư lãng phí, dàn trải, manh mún, kiên quyết phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Người dân, doanh nghiệp phải được hưởng lợi ích thiết thực từ chuyển đổi số mang lại.

Đến năm 2025, 100% người dân có nhu cầu có thể đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua VNeID

Mục tiêu đặt ra đến năm 2025 là 100% cơ sở y tế (bao gồm cả công lập và tư nhân) và có 40 triệu lượt người dân sử dụng Sổ sức khỏe điện tử. Sau năm 2025, mỗi người dân Việt Nam, kể cả những người chưa có thẻ Bảo hiểm y tế đều sở hữu một Sổ sức khoẻ điện tử trên ứng dụng VNeID và 30% người dân khi đi khám chữa bệnh có bệnh án điện tử.

Đến năm 2025, 100% người dân có nhu cầu có thể đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua VNeID.

Tập trung thực hiện "5 đẩy mạnh", "5 bảo đảm"

Để thực hiện chuyển đổi số quốc gia nói chung, việc triển khai 02 tiện ích (Sổ sức khỏe điện tử, Phiếu lý lịch tư pháp) và các tiện ích khác trên VNeID nói riêng một cách hiệu quả, thực chất, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện "5 đẩy mạnh": (i) Đẩy mạnh chuyển đổi số mạnh mẽ về cả tư duy và hành động; (ii) Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là TTHC gắn với chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số; nâng cao năng lực quản lý nhà nước theo hướng hiện đại, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả, tránh tiêu cực, tránh cơ chế "xin - cho"; (iii) Đẩy mạnh phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành theo hướng tăng cường kết nối, liên thông, tích hợp, chia sẻ dữ liệu; (iv) Đẩy mạnh triển khai các tiện ích trên nền tảng VNeID để người dân, doanh nghiệp sử dụng và hưởng thụ thật; (v) Đẩy mạnh thông tin truyền thông, tạo đồng thuận xã hội.

Việc thực hiện cần gắn với "5 bảo đảm": (i) Bảo đảm sự tham gia đồng bộ của tất cả các bộ, ngành, địa phương trong quá trình triển khai; (ii) Bảo đảm hạ tầng số, nền tảng số hoạt động ổn định, thông suốt (không được lõm sóng, thiếu điện); (iii) Bảo đảm nhân lực để triển khai các ứng dụng, tiện ích, nền tảng số (đủ năng lực, đủ tâm, đủ tầm, có trách nhiệm); (iv) Bảo đảm 100% người dân, doanh nghiệp có nhu cầu được tiếp cận dễ dàng, an toàn, tiện lợi, chi phí thấp và thu hút người dân tham gia góp ý trong quá trình thiết kế, sáng tạo; hướng đến cá nhân hóa các dịch vụ công trực tuyến được cung cấp; (v) Bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin, tính riêng tư của thông tin, dữ liệu.

Nghiên cứu tích hợp tiếp những loại giấy tờ khác trên ứng dụng VNeID

Các Bộ, ngành, địa phương chủ động nghiên cứu, phối hợp với Bộ Công an đề xuất triển khai, tích hợp tiếp những loại giấy tờ đang quản lý và cung cấp các tiện ích mới trên ứng dụng VNeID (như xác nhận tình trạng hôn nhân, thông báo thi hành án dân sự, thông tin giáo dục, đào tạo…).

Tiếp tục quan tâm, đầu tư phát triển hạ tầng số, nâng cấp, hoàn thiện Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, tỉnh kết nối thông suốt với Cổng Dịch vụ công quốc gia, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, các phần mềm nghiệp vụ của Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Bảo hiểm xã hội Việt Nam hoàn thành trong năm 2024.

Các bộ, cơ quan tập trung sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền, hoặc đề xuất, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi các quy định, TTHC liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp để cắt giảm yêu cầu nộp Phiếu lý lịch tư pháp thuộc phạm vi quản lý.

Các địa phương bảo đảm nhân lực, hạ tầng kỹ thuật để cấp Phiếu lý lịch tư pháp, Sổ sức khỏe điện tử qua VNeID trong năm 2024

Các địa phương bảo đảm nguồn nhân lực, hạ tầng kỹ thuật và các điều kiện cần thiết để thực hiện cấp Phiếu lý lịch tư pháp, Sổ sức khỏe điện tử qua VNeID hoàn thành trong năm 2024 và thúc đẩy triển khai Bệnh án điện tử trên địa bàn. Rà soát, chuẩn hóa thông tin lý lịch tư pháp trong Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, bảo đảm kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; rút ngắn thời gian cấp Phiếu lý lịch tư pháp, hoàn thành trong năm 2024.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ thực hiện dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp. Phát huy vai trò của Tổ công nghệ số cộng đồng, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện tiếp cận công nghệ còn hạn chế. Quan tâm tuyên truyền, truyền thông các kỹ năng quan trọng cho người dân như chống thiên tai, bão lũ, phòng cháy, chữa cháy trên các nền tảng số.

Tối ưu hóa các tiện ích hiện có trên ứng dụng VNeID

Bộ Công an phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tiếp tục hoàn thiện, tối ưu hóa các tiện ích hiện có trên ứng dụng VNeID, đảm bảo hệ thống hoạt động ổn định, an toàn, thuận tiện, thông suốt, công khai, minh bạch.

Chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bảo hiểm xã hội Việt Nam xây dựng phương án kỹ thuật phù hợp để chia sẻ dữ liệu Sổ sức khỏe, Giấy chuyển tuyến, Giấy hẹn khám lại trên ứng dụng VNeID cho các cơ sở khám, chữa bệnh đảm bảo tập trung, thống nhất và tuân thủ các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân; an toàn thông tin mạng.

Bộ Công an chủ trì, phối hợp với bộ, ngành, cơ quan liên quan tập trung xây dựng Trung tâm Dữ liệu quốc gia bảo đảm tiến độ để đưa vào sử dụng, khai thác trong năm 2025.

Xây dựng Sổ sức khỏe điện tử cho trẻ em, nhất là thông tin tiêm chủng (ngay từ khi chào đời) gắn với VNeID của cha mẹ

Bộ Y tế phối hợp với Bộ Công an nghiên cứu hoàn thiện Sổ sức khỏe điện tử trên ứng dụng VNeID, xây dựng Sổ sức khỏe điện tử cho trẻ em, nhất là thông tin tiêm chủng (ngay từ khi chào đời) gắn với VNeID của cha mẹ, người giám hộ hoặc trẻ em (nếu có); bổ sung các quy định để người dân sử dụng thay thế Sổ khám, chữa bệnh bằng giấy. Thành lập Tổ giúp việc triển khai Sổ sức khỏe điện tử, Giấy chuyển tuyến, Giấy hẹn khám lại.

Đẩy mạnh hướng dẫn các cơ sở, khám chữa bệnh và người dân thực hiện Sổ sức khỏe điện tử trên VNeID; xây dựng lộ trình triển khai Bệnh án điện tử, báo cáo lộ trình trong tháng 10 năm 2024. Xây dựng giải pháp, công cụ để giám sát các cơ sở khám chữa bệnh thực hiện liên thông dữ liệu Sổ sức khỏe điện tử, Giấy chuyển tuyến, Giấy hẹn khám lại, Kết quả xét nhiệm; để cơ sở khám chữa bệnh, bác sĩ khai thác thông tin Sổ sức khỏe trên VNeID trực tiếp từ phần mềm của cơ sở khám chữa bệnh, hoàn thành trong năm 2024.

Chủ trì, phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam có hướng dẫn cụ thể về việc liên thông dữ liệu giữa các cơ sở khám chữa bệnh và sử dụng Sổ sức khỏe điện tử, Giấy chuyển tuyến, Giấy hẹn khám lại trên ứng dụng VNeID. Đồng thời, tái sử dụng kết quả xét nghiệm máu trên Sổ sức khỏe điện tử để các bệnh viện sử dụng, giải quyết dứt điểm tình trạng cát cứ dữ liệu.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam bảo đảm hạ tầng kỹ thuật và hỗ trợ việc liên thông dữ liệu từ các cơ sở khám chữa bệnh, để tích hợp hiển thị thông tin sức khỏe, Giấy chuyển tuyến, Giấy hẹn khám lại lên Sổ sức khoẻ điện tử trên VNeID, tạo thuận lợi cho việc khám chữa bệnh theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Thực hiện liên thông dữ liệu giữa các Cơ sở khám chữa bệnh theo hướng dẫn của Bộ Y tế./.