Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng luật sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội trả lời ông Lê Minh Hiếu như sau:
Khái niệm cộng tác được hiểu là quá trình trao đổi, trợ giúp, phối hợp, cùng làm chung giữa một nhóm người nhằm đạt được một mục tiêu chung. Cộng tác viên là cá nhân làm việc theo chế độ cộng tác với một tổ chức và không thuộc biên chế của tổ chức đó.
Hợp đồng với cộng tác viên thường được áp dụng đối với cá nhân thuộc một tổ chức này cộng tác làm một công việc cụ thể ở một tổ chức khác; hoặc cá nhân có chuyên môn khoa học công nghệ cộng tác với một tổ chức để nghiên cứu một đề tài khoa học công nghệ; hoặc cá nhân có chuyên môn nghiệp vụ ở một lĩnh vực cụ thể cộng tác với cơ quan, đơn vị báo chí để viết, cung cấp tin, bài, ảnh liên quan đến chuyên môn nghiệp vụ đó…
Cộng tác viên được trả thù lao theo từng công việc hoàn thành, hoặc theo tiến độ thực hiện công việc. Thời hạn thực hiện hợp đồng cộng tác viên do các bên thỏa thuận, phù hợp với công việc và tiến độ thực hiện công việc.
Trên thực tế, có một số tổ chức, doanh nghiệp sử dụng văn bản có tên gọi là hợp đồng cộng tác viên để áp dụng cho quan hệ lao động (là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động), là trái với quy định của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động, nhằm trốn tránh nghĩa vụ đóng nộp BHXH, BHYT, BHTN bắt buộc, không bảo đảm quyền lợi của người lao động khi tham gia quan hệ lao động.
Trường hợp công ty của ông Lê Minh Hiếu cần thuê, sử dụng lao động làm công việc kế toán trong thời gian 6 năm, không nên giả cách hình thức hợp đồng cộng tác viên.
Để phù hợp với quy định của pháp luật, công ty có thể lựa chọn, ký kết, thực hiện hợp đồng theo một trong hai phương án sau:
Phương án thứ nhất ký kết hợp động lao động với người lao động: Đại diện theo pháp luật của công ty ký kết hợp đồng lao động xác định thời hạn 3 năm (quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 22 Bộ luật Lao động) với người lao động có đủ tiêu chuẩn và điều kiện làm kế toán, kế toán trưởng, phụ trách kế toán, quy định tại Khoản 1, Điều 51 Luật Kế toán, Điều 21 Nghị định số 174/2016/NĐ-CP ngày 30/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Kế toán. Khi hết hạn hợp đồng lao động xác định thời hạn 3 năm (lần thứ nhất), người sử dụng lao động và người lao động ký kết hợp đồng lao động xác định thời hạn 3 năm (lần thứ hai), cho đủ 6 năm. Quyền và nghĩa vụ của hai bên giao kết hợp đồng lao động thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động.
Người lao động theo hợp đồng lao động làm kế toán có quyền và trách nhiệm theo quy định tại Khoản 2, Khoản 3, Điều 51 Luật Kế toán. Người lao động theo hợp đồng lao động làm kế toán trưởng, phụ trách kế toán có quyền và trách nhiệm của kế toán trưởng quy định tại Điều 55 Luật Kế toán.
Phương án thứ hai ký kết hợp đồng dịch vụ kế toán với đơn vị kinh doanh dịch vụ kế toán: Căn cứ quy định về hợp đồng dịch vụ tại Mục 9 (Điều 513 đến Điều 523) Bộ luật Dân sự và quy định về thuê dịch vụ làm kế toán, dịch vụ làm kế toán trưởng, phụ trách kế toán tại Điều 22 Nghị định số 174/2016/NĐ-CP, công ty ký kết hợp đồng dịch vụ kế toán với đơn vị kinh doanh dịch vụ kế toán để thuê dịch vụ làm kế toán, dịch vụ làm kế toán trưởng, phụ trách kế toán. Thời hạn thực hiện hợp đồng dịch vụ do hai bên thỏa thuận.
Đơn vị kinh doanh dịch vụ kế toán có trách nhiệm cử người làm dịch vụ kế toán, kế toán trưởng, phụ trách kế toán cho khách hàng bảo đảm đủ tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại Khoản 1, Điều 51, Điều 56, Điều 58 Luật Kế toán và không thuộc các trường hợp không được làm kế toán hoặc không được cung cấp dịch vụ kế toán quy định tại Điều 19 và Điều 25 Nghị định số 174/2016/NĐ-CP.
Người được thuê làm dịch vụ kế toán có quyền và trách nhiệm của người làm kế toán quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 51 Luật kế toán. Người được thuê dịch vụ làm kế toán trưởng, phụ trách kế toán có quyền và trách nhiệm của kế toán trưởng quy định tại Điều 55 Luật Kế toán.
Luật sư Trần Văn Toàn
VPLS Khánh Hưng, Đoàn luật sư Hà Nội