Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Ông Trịnh Hải Âu (Tây Ninh) đề nghị cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn tình huống như sau:
Ban quản lý dự án huyện A là bên mời thầu gói thầu B. Mở thầu ngày 1/8/2018.
Theo yêu cầu hồ sơ mời thầu, phần đánh giá về mặt kỹ thuật bằng phương pháp chấm điểm, mục mức độ đáp ứng yêu cầu về vật tư có ghi chú:
"Nếu nhà thầu có hầm đất, hầm sỏi, mỏ khai thác đá các loại (có đính kèm tài liệu chứng minh quyền khai thác còn hiệu lực), trạm sản xuất bê tông nhựa để chủ động thi công thì đạt điểm tối đa.
Nếu nhà thầu mua vật tư (phải có hợp đồng nguyên tắc mua phải phù hợp với vị trí xây dựng công trình, bên cung cấp phải có tài liệu chứng minh quyền khai thác còn hiệu lực) thì đạt điểm tối thiểu.
Nếu nhà thầu mua vật tư không có hợp đồng nguyên tắc mua, không thể hiện nguồn gốc, xuất xứ hoặc có gian lận thì không được chấm điểm phần này và sẽ bị loại".
Trong hồ sơ dự thầu của nhà thầu X (không có mỏ khai thác) có ký kết hợp đồng nguyên tắc với nhà cung cấp Y về việc cung cấp đất, sỏi, đá, cát. Nhưng không có tài liệu chứng minh quyền khai thác còn hiệu lực của nhà cung cấp Y.
Ngày 7/8/2018, Ban quản lý dự án có văn bản làm rõ về "tài liệu chứng minh quyền khai thác" của nhà thầu X, nhà cung cấp Y, thời gian làm rõ đến ngày 10/8/2018.
Ngày 10/8/2018, nhà thầu X có văn bản làm rõ hồ sơ dự thầu và cung cấp thêm 3 tài liệu gồm:
- Hợp đồng nguyên tắc mua đất sỏi giữa nhà cung cấp Y với đơn vị M.
- Giấy phép khai thác đất, sỏi của đơn vị M.
- Hợp đồng nguyên tắc mua đá, cát giữa nhà cung cấp Y với đơn vị Q. Nhưng không có giấy phép khai thác của đơn vị Q.
Ngày 12/8/2018, Ban quản lý dự án có thư mời nhà thầu X làm rõ hồ sơ dự thầu.
Ngày 13/8/2018, nhà thầu X tham dự họp. Tại cuộc họp, nhà thầu X cung cấp thêm 1 giấy phép khai thác cát của đơn vị P và giải thích đơn vị P ký hợp đồng nguyên tắc với đơn vị Q (nhưng tại cuộc họp chưa cung cấp hợp đồng nguyên tắc giữa P-Q). Nhà thầu X, nhà cung cấp Y cam kết sẽ cung cấp hợp đồng nguyên tắc giữa nhà cung cấp Y với đơn vị sản xuất đá Z và xin gia hạn thời gian làm rõ đến ngày 20/8/2018.
Ông Hải Âu hỏi, việc bổ sung các hợp đồng nguyên tắc như trên của nhà thầu sau thời điểm đóng thầu có làm thay đổi nội dung cơ bản của hồ sơ dự thầu hay không? Các hợp đồng nguyên tắc của nhà cung cấp Y với các đơn vị M, Q, P, Z có được phép chấp nhận hợp lệ để xem xét đánh giá?
Việc nhà thầu xin gia hạn thời gian làm rõ hồ sơ dự thầu có được phép và bảo đảm tính công bằng với các nhà thầu khác không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau:
Khoản 1, Điều 16 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định sau khi mở thầu, nhà thầu có trách nhiệm làm rõ hồ sơ dự thầu theo yêu cầu của bên mời thầu.
Trường hợp hồ sơ dự thầu của nhà thầu thiếu tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung tài liệu để chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm.
Đối với các nội dung đề xuất về kỹ thuật, tài chính nêu trong hồ sơ dự thầu của nhà thầu, việc làm rõ phải bảo đảm nguyên tắc không làm thay đổi nội dung cơ bản của hồ sơ dự thầu đã nộp, không thay đổi giá dự thầu.
Đối với vấn đề của ông Hải Âu, sau thời điểm đóng thầu, việc làm rõ về hợp đồng nguyên tắc được thực hiện theo quy định nêu trên.