• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Giáo dục học sinh khuyết tật: Khó khăn trăm bề

(Chinhphu.vn) - Giáo dục trẻ khuyết tật (KT) đang phải đối diện 5 thách thức lớn: Nhận thức của cộng đồng và hệ thống dịch vụ hỗ trợ cho giáo dục trẻ KT còn hạn chế, thông tin về trẻ KT chưa đầy đủ, các điều kiện giáo dục trẻ KT ở các vùng không đồng đều và chưa hình thành được hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

15/12/2015 17:56
Cô giáo Trường Tiểu học Bùi Thị Xuân (TP. Buôn Ma Thuột) hướng dẫn học sinh khuyết tật học tập. Ảnh: Báo Đắk Lắk.
30% các trường chưa nhận trẻ khuyết tật

Tại hội thảo 20 năm giáo dục học sinh KT Việt Nam do Bộ GD&ĐT tổ chức sáng 15/12, Viện Nghiên cứu giáo dục Việt Nam đã công bố kết quả nghiên cứu sự sẵn sàng cho giáo dục KT tại 8 tỉnh, thành phố của Việt Nam, gồm An Giang, Kon Tum, Ninh Thuận, TPHCM, Lào Cai, Gia Lai, Đồng Tháp.

Kết quả nghiên cứu do Bộ GD&ĐT, ĐH Toronto, Đại sứ quán Australia và UNICEF thực hiện cho thấy, năm 1996, cả nước có 42.000 trẻ KT được đi học, đến năm 2015 có 500.000 trẻ KT được đến trường.

Như vậy, trong 20 năm thực hiện Nghị định 26/CP ngày 17/4/1995 của Chính phủ về giao nhiệm vụ “dạy văn hóa cho trẻ KT, bao gồm cả trẻ điếc, chuyển sang Bộ GD&ĐT”, giáo dục học sinh KT của Việt Nam đã có những thành tựu nhất định, số lượng trẻ KT được đi học đã tăng lên hơn 10 lần; quy mô giáo dục trẻ KT đã tăng hơn hẳn so với các năm trước.

Tuy nhiên, dù số lượng trẻ KT được đến trường đã cải thiện hơn trước, nhưng vẫn còn nhiều trẻ chưa có cơ hội tiếp cận giáo dục do phải đối mặt với nhiều khó khăn.

Đầu tiên, đó là khó khăn từ vấn đề nhận thức. Đa số cán bộ quản lý trường học và giáo viên đã nhận thức rõ các chính sách hiện hành về giáo dục cho trẻ KT, song vẫn còn 30% các trường được khảo sát nhận thấy trường mình chưa làm tròn trách nhiệm liên quan đến trẻ KT.

Lãnh đạo nhà trường và các giáo viên vẫn đang bối rối và chưa sẵn sàng nhận các em KT vào học, nhất là khi họ không hiểu rõ chính sách và nguồn hỗ trợ hiện có cho việc thực hiện giáo dục hòa nhập.

Nghiên cứu chỉ ra một khó khăn nữa đối với giáo dục trẻ KT ở Việt Nam đó là vấn đề kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ KT vẫn đang tồn tại trong ngành giáo dục.

Lãnh đạo các trường tham gia khảo sát cho biết, thiếu kinh phí là rào cản lớn nhất khiến họ chưa làm tròn trách nhiệm theo quy định. Tiếp đó là thiếu kiến thức chuyên môn để quản lý việc này.

86% các trường tham gia khảo sát cho biết họ không có bất kỳ khoản ngân sách nào phân bổ cho việc giáo dục trẻ KT.

Mặt khác, cơ sở vật chất để trẻ KT có thể tiếp cận được tại các tòa nhà cũng như trường học, trụ sở hành chính giáo dục ở các quận, huyện, tỉnh, Trung ương còn nghèo nàn và hiện không có chính sách hay kế hoạch cụ thể về việc nâng cấp cơ sở vật chất này.

Và chỉ có 6% các trường cho biết họ đã nỗ lực hết sức để nhận tất cả trẻ KT vào học.

Việc thiếu giáo viên dạy trẻ KT cũng là một cản trở cho sự hòa nhập của trẻ KT trong trường học. Đa số giáo viên dạy trẻ KT là kiêm nhiệm, hoặc chỉ trải qua khóa tập huấn, đào tạo ngắn hạn.

Hiện Việt Nam có 4 cơ sở chính đào tạo giáo viên về giáo dục chuyên biệt là ĐH Sư phạm Hà Nội, ĐH Sư phạm TPHCM, CĐ Sư phạm Trung ương, CĐ Sư phạm Trung ương 2 và đến nay mới chỉ có ĐH Sư phạm Hà Nội tổ chức đào tạo chương trình thạc sĩ giáo dục chuyên biệt; chưa có chương trình đào tạo tiến sĩ chuyên ngành này tại Việt Nam.

Đa số giáo viên tham gia khảo sát cho biết, họ không được tham gia bất kỳ chương trình tập huấn nào về giáo dục hòa nhập, giáo dục chuyên biệt hay về vấn đề KT.

Trong đó, 65% giáo viên không được tiếp cận chương trình tập huấn về giáo dục hòa nhập, 73% không nhận được sự trợ giúp từ các trung tâm, hoặc các mạng lưới giáo dục hòa nhập để giúp họ nâng cao chuyên môn và kỹ năng.

Đặc biệt, chương trình tập huấn rất hạn chế cho các giáo viên THCS. Ngược lại, cán bộ quản lý lại được tham dự nhiều đợt tập huấn hòa nhập, chỉ có 32% cán bộ quản lý không được tham gia.

Đối mặt với 5 thách thức

PGS.TS Phạm Minh Mục, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam cho biết, giáo dục trẻ KT đang phải đối diện 5 thách thức lớn.

Đó là: Nhận thức của cộng đồng về giáo dục trẻ KT còn hạn chế; thông tin về trẻ KT chưa đầy đủ, thiếu sự thống nhất và không cập nhật; hệ thống dịch vụ hỗ trợ cho giáo dục trẻ KT hạn chế về số lượng, kém về chất lượng, thiếu sự quản lý đồng bộ và giám sát liên ngành; các điều kiện giáo dục trẻ KT ở các vùng, miền không đồng đều và đang có nguy cơ tăng do sự ô nhiễm môi trường sống, tai nạn và sự gia tăng dân số. Cuối cùng là chưa hình thành được hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và sự phối hợp giữa các ban ngành để lôi cuốn sự tham gia, hợp tác của toàn xã hội.

Bộ GD&ĐT đặt ra mục tiêu đến năm 2020 cả nước có 75% người KT được học hòa nhập (tương ứng vùng thuận lợi tỉ lệ này là 80%, vùng trung bình là 75%, vùng khó khăn là 65%). Đến năm 2030, tỉ lệ chung là 80% người KT được học hòa nhập.

Để thực hiện mục tiêu này, Bộ GD&ĐT đã đưa ra một số giải pháp cơ bản như đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo dục trẻ KT từ Trung ương đến địa phương đủ về số lượng, đáp ứng về chất lượng.

“Chúng ta cần chú ý tới việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực là người KT có khả năng phục vụ cho giáo dục trẻ KT. Trên cơ sở điều tra, xác định số lượng và khả năng của người KT sẽ lập kế hoạch và tiến hành đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng họ như những nguồn nhân lực phục vụ công tác chăm sóc, giáo dục trẻ KT”, ông Mục cho biết thêm.

Đồng thời với giải pháp về giáo viên sẽ có các giải pháp khác đi kèm như phát triển hệ thống hỗ trợ giáo dục trẻ KT, đảm bảo kinh phí của Nhà nước và các tài trợ cho việc thực hiện các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể trong giáo dục trẻ KT; triển khai chương trình hành động thực hiện các giải pháp kỹ thuật đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục trẻ KT.

Đặc biệt, chú trọng nâng cao nhận thức cho cán bộ lãnh đạo và giáo viên nhà trường về trách nhiệm xã hội của ngành giáo dục với trẻ KT.

Vẫn biết, điều kiện cơ sở, vật chất con người, nguồn lực của nhiều cơ sở giáo dục vẫn còn thiếu thốn, nhưng việc tạo cơ hội tiếp cận môi trường giáo dục cho trẻ KT vẫn là điều cần làm để giúp các em hòa nhập cộng đồng, có điều kiện cải thiện chất lượng cuộc sống và qua đó giảm bớt gánh nặng cho xã hội.

Nguyệt Hà