Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Ảnh minh họa. |
Liên quan đến việc tháo gỡ khó khăn cho TKV, Bộ Tài chính vừa có công văn do Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai ký gửi Bộ Công Thương về việc xem xét giải pháp giảm thuế và tăng xuất khẩu than.
Về giải pháp giảm thuế, theo Bộ Tài chính, hiện nay, mức thuế của tài nguyên đối với mặt hàng than là 10% và 12%, quy định tại Nghị quyết số 1084/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Do đó, việc xem xét sửa đổi thuế suất thuế tài nguyên thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, mức thuế suất tài nguyên quy định vừa mới ban hành nên cần có thời gian để tổng kết đánh giá. Mặt khác, việc đề nghị thay đổi mức thuế suất của từng sắc thuế căn cứ trên kiến nghị của một đơn vị cần được cân nhắc kỹ, nhất là trong bối cảnh ngân sách Nhà nước đang khó khăn.
Qua trao đổi, TKV cho biết sản lượng khai thác hằng năm của 3 mỏ Vàng Danh, Uông Bí, Năm Mẫu là 8,5 triệu tấn than, trong đó khoảng 35% (tương đương 3 triệu tấn than) là than có chất lượng cao, trong nước ít có nhu cầu sử dụng.
Hiện nay, giá than nhập khẩu thấp hơn giá bán trong nước nên các nhà máy điện, xi măng giảm sản lượng mua từ TKV nên lượng tồn kho tăng, trong khi lượng than xuất khẩu theo kế hoạch tính cho giai đoạn 2017-2019 là 2 triệu tấn/năm.
Do đó, Thứ trưởng Vũ Thị Mai kiến nghị Bộ Công Thương xem xét tăng kế hoạch xuất khẩu cho giai đoạn 2017-2020 lên 3-4 triệu tấn/năm bởi đây là giải pháp có tính khả thi hơn vì giảm được lượng than tồn kho mà trong nước ít có nhu cầu sử dụng.
Trước đó, liên quan đến việc gỡ khó cho ngành than, tại buổi tọa đàm trực tuyến trên Cổng TTĐT Chính phủ diễn ra sáng 24/10, ông Nguyễn Khắc Thọ, Tổng cục Phó Tổng cục Năng lượng (Bộ Công Thương) cho biết, hiện giá than thế giới đã tăng so với những tháng đầu năm và tiệm cận dần với giá sản xuất trong nước. Vì vậy, dự kiến từ nay đến hết năm 2016, lượng than nhập khẩu sẽ giảm dần, nếu có chỉ là các doanh nghiệp thực hiện nốt các hợp đồng đã ký.
Việc tiêu thụ than tồn kho, ông Thọ cũng cho rằng cần phải tăng lượng xuất khẩu, phải tạo được thị trường và có cơ chế về giá, giá cao sẽ không tiêu thụ được.
“Năm 2016, Chính phủ phê duyệt cho TKV xuất khẩu 2 triệu tấn than chất lượng cao nhưng do giá cao nên hiện mới xuất khẩu được khoảng 400.000 tấn. Mới đây, Bộ Công Thương đề xuất Chính phủ cho xuất khẩu thêm khoảng 2 triệu tấn than trong nước không sử dụng đến là than cám Vàng Danh. Đây là loại than có độ lưu huỳnh cao và chất bốc thấp, kinh phí vận chuyển, pha trộn để sử dụng trong nước sẽ tốn chi phí nhưng nếu trộn thêm loại than khác vào để xuất khẩu thì sẽ giảm bớt được lượng tồn kho trong nước”, Tổng cục Phó Tổng cục Năng lượng đưa ra quan điểm.
Theo Tổng cục Hải quan, tính đến 15/9, tổng lượng nhập khẩu than là 10,1 triệu tấn với kim ngạch 629,5 triệu USD. Những thị trường cung ứng than lớn cho Việt Nam gồm Australia, Nga, Indonesia và Trung Quốc. Những năm qua, ngành than liên tục kêu khó. TKV cho rằng, than trong nước kém cạnh tranh hơn so với than nhập khẩu chủ yếu do thuế tài nguyên của Việt Nam cao hơn các nước như Indonesia, Autralia, Trung Quốc từ 5-7%.
Trong khi giá than thế giới giảm thì các loại thuế, phí than trong nước lại tăng, chiếm khoảng 15%. TKV đã gửi văn bản kiến nghị xem xét giảm thuế tài nguyên nói chung và thuế tài nguyên đối với sản phẩm than nói riêng bằng mức các nước trong khu vực. Cụ thể, than hầm lò 5%, than lộ thiên 7%, không tính phí môi trường trên cả đất đá thải ra trong quá trình khai thác.
Hiện kiến nghị của TKV vẫn đang được các cơ quan chức năng xem xét.
Phan Trang