• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Làm thế nào khai sinh cho con ngoài giá thú?

(Chinhphu.vn) - Chị của ông Lê Văn Bình (vjpn00ne.88@...) năm nay 30 tuổi, có 1 con ngoài giá thú, hiện đã 2 tuổi nhưng chưa làm thủ tục đăng ký khai sinh. Hiện cha của cháu bé chuẩn bị kết hôn với người khác nhưng không làm thủ tục khai sinh cho cháu bé. Vậy, gia đình ông Bình cần làm gì để có thể khai sinh cho cháu bé?

24/12/2013 11:02
Ảnh minh hoạ

Luật sư Lê Văn Đài, Văn phòng luật sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội hướng dẫn ông Bình như sau:

Khoản 1 Điều 13 và Điều 14 của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định, UBND xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp xã), nơi cư trú của người mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ em; nếu không xác định được nơi cư trú của người mẹ, thì UBND cấp xã, nơi cư trú của người cha thực hiện việc đăng ký khai sinh.

Cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha, mẹ không thể đi khai sinh, thì ông, bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em.

Thủ tục đăng ký khai sinh

Điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP (trong đó có khoản 1 Điều này đã được sửa đổi, bổ sung theo khoản 4 Điều 1 Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 2/2/2012 của Chính phủ) quy định thủ tục đăng ký khai sinh như sau:

Người đi đăng ký khai sinh phải nộp Tờ khai, Giấy chứng sinh (theo mẫu quy định) và xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ em (nếu cha, mẹ của trẻ em có đăng ký kết hôn).

Giấy chứng sinh do cơ sở y tế, nơi trẻ em sinh ra cấp; nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế, thì Giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Trong trường hợp không có người làm chứng, thì người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực.

Trong trường hợp cán bộ Tư pháp hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ em, thì không bắt buộc phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn.

Sau khi kiểm tra các giấy tờ hợp lệ, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh, Chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp cho người đi khai sinh một bản chính Giấy khai sinh. Bản sao Giấy khai sinh được cấp theo yêu cầu của người đi khai sinh.

Trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không xác định được người cha, thì phần ghi về người cha trong sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh để trống. Nếu vào thời điểm đăng ký khai sinh có người nhận con, thì UBND cấp xã kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh.

Cụ thể trường hợp ông Lê Văn Bình phản ánh, căn cứ các quy định nêu trên, mẹ trẻ em (chị ông Bình), hoặc ông, bà hoặc những người thân thích khác có thể đi khai sinh cho trẻ em mà không bắt buộc phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn. Người đi đăng ký khai sinh phải nộp hồ sơ gồm: Tờ khai, Giấy chứng sinh do cơ sở y tế, nơi trẻ em sinh ra cấp; nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế, thì Giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Trong trường hợp không có người làm chứng, thì người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực.

Hiện nay chị ông Bình đang sinh sống tại địa phương, thẩm quyền đăng ký khai sinh cho trẻ là UBND cấp xã nơi chị ông cư trú. Sau khi chị ông Bình sinh con, chị ông và bạn trai không đăng ký kết hôn (có thể do không muốn kết hôn, hoặc không đủ điều kiện kết hôn, hoặc thuộc trường hợp bị cấm kết hôn), thì chị ông có trách nhiệm đi khai sinh cho trẻ. Khi đăng ký khai sinh cho trẻ, nếu chị ông không khai về người cha thì bỏ trống mục khai về người cha.

Bạn trai chị ông Bình chỉ được công nhận là cha của trẻ em mà chị ông sinh ra khi giải quyết việc nhận con theo quy định tại Điều 33, Điều 34 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP.

Nếu bạn trai của chị ông Bình kết hợp việc nhận con với việc đăng ký khai sinh cho trẻ em thì thông tin về bạn trai của chị ông Bình được ghi tại mục khai về người cha trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh.

Luật sư Lê Văn Đài

VPLS Khánh Hưng – Đoàn luật sư Hà Nội

* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.