• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

NGHỊ ĐỊNH SỐ 255/2025/NĐ-CP: Định lượng cụ thể về suy giảm dân số (Bài 2)

(Chinhphu.vn) - Việc định lượng cụ thể sự suy giảm về dân số là thước đo quan trọng nhất để xác định khó khăn đặc thù của từng dân tộc; là căn cứ để tập trung, ưu tiên nguồn lực đầu tư, hỗ trợ cho các dân tộc có khó khăn đặc thù.

26/10/2025 07:02
NGHỊ ĐỊNH SỐ 255/2025/NĐ-CP: Định lượng cụ thể về suy giảm dân số (Bài 2)- Ảnh 1.

Việc xác định dân tộc còn nhiều khó khăn, dân tộc có khó khăn đặc thù là để tiếp tục ưu tiên nguồn lực đầu tư, hỗ trợ trọng tâm, trọng điểm, giải quyết các vấn đề bức xúc, cấp bách nhất

Khi dân số giảm, bài toán chính sách cần được linh hoạt

Theo Quyết định số 39/2020/QĐ-TTg cũng như Nghị định số 255/2025/NĐ-CP, dân tộc có khó khăn đặc thù là dân tộc có dân số dưới 10 nghìn người. Tuy nhiên, tiêu chí "cứng" này cần có góc nhìn đa chiều hơn, nhất là đối với những dân tộc không đáp ứng tiêu chí nhưng đang có xu hướng suy giảm dân số.

Năm 2019, theo kết quả điều tra 53 DTTS lần thứ II, dân tộc La Hủ có 2.952 hộ dân với 12.113 nhân khẩu, sinh sống tập trung tại Lai Châu. Nhưng đến tháng 7/2024, kết quả điều tra 53 DTTS lần thứ III (được Bộ Dân tộc và Tôn giáo công bố tháng 7/2025) cho thấy, dân tộc La Hủ có 2.311 hộ, với 10.314 nhân khẩu.

Cùng với suy giảm dân số thì tỷ lệ nghèo trong đồng bào La Hủ còn rất cao. Tính đến tháng 11/2024, theo báo cáo của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, tỷ lệ nghèo của dân tộc La Hủ là 73,87%; trong khi đó, tỷ lệ nghèo bình quân chung của 53 DTTS là 12,5%.

Đáng chú ý, ở một số bản làng đồng bào dân tộc La Hủ, tình trạng nghiện rượu, nghiện ma túy vẫn còn dai dẳng. Cùng với điều kiện kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn thì những tệ nạn này đã và đang bào mòn chất lượng dân số dân tộc La Hủ.

Bản Phìn Khò cách trung tâm xã Bum Tở, tỉnh Lai Châu chỉ khoảng 7km; 100% dân số của bản là đồng bào dân tộc La Hủ. Bản có 165 hộ thì có khoảng 140 hộ nghèo.

Một trong những nguyên nhân khiến Phìn Khò khó "cắt" được nghèo là do tệ nạn ma túy. Cách đây khoảng 15 năm, Phìn Khò có khoảng 600 nhân khẩu thì có 50 người nghiện ma túy; đến năm 2024, người nghiện ma túy ở bản giảm xuống con số 30.

Nguy cơ suy kiệt giống nòi vì ma túy vẫn treo lơ lửng khi mà tình hình tội phạm ma túy vẫn diễn biến phức tạp ở bản Phìn Khò. Gần đây nhất, trong 3 ngày (từ 25 đến 27/8/2025), Công an xã Bum Tở liên tiếp bắt giữ 3 vụ/5 đối tượng mua bán, tàng trữ ma túy trái phép trên địa bàn xã; trong đó bắt giữ 1 vụ/2 đối tượng (đều là người La Hủ) ở bản Phìn Khò.

Thực trạng nhức nhối đó cho thấy rõ khó khăn đặc thù của dân tộc La Hủ, một trong 32 dân tộc còn nhiều khó khăn giai đoạn 2021-2025 theo Quyết định số 1227/QĐ-TTg. Vì thế, tại Hội nghị tiếp xúc cử tri xã Thu Lũm của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lai Châu (ngày 30/9/2025), cử tri đã kiến nghị đại biểu Quốc hội tỉnh có ý kiến trước Quốc hội, xem xét đưa dân tộc La Hủ vào diện khó khăn đặc thù giai đoạn 2026-2030.

NGHỊ ĐỊNH SỐ 255/2025/NĐ-CP: Định lượng cụ thể về suy giảm dân số (Bài 2)- Ảnh 3.

Thiếu nữ dân tộc La Hủ tại Lai Châu

Suy giảm dân số từ góc nhìn nghèo đa chiều

Sự suy giảm dân số của dân tộc La Hủ còn được cảnh báo rõ ràng hơn do tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi của dân tộc này tăng mạnh. Theo báo cáo của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi của dân tộc La Hủ tại Lai Châu tăng từ 22,36‰ (năm 2019) lên 44,12‰ (năm 2024).

Chiếu theo dữ liệu từ cuộc điều tra thông tin kinh tế-xã hội của 53 DTTS năm 2024, cùng với dân tộc La Hủ thì dân tộc Hà Nhì cũng có xu hướng suy giảm dân số mạnh. Tại thời điểm tháng 7/2024, dân tộc Hà Nhì có 4.569 hộ, với 17.850 người. Trước đó (năm 2019), dân tộc Hà Nhì có 5.989 hộ, với 25.539 nhân khẩu.

Hiện tỷ lệ nghèo của dân tộc Hà Nhì vẫn còn rất cao (48,47%); tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi vẫn ở mức 38,93‰. Với điều kiện kinh tế-xã hội còn khó khăn, việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, từ đó cải thiện chất lượng dân số đồng bào dân tộc Hà Nhì là không hề dễ.

NGHỊ ĐỊNH SỐ 255/2025/NĐ-CP: Định lượng cụ thể về suy giảm dân số (Bài 2)- Ảnh 4.

Trò chơi ấp trứng được diễn ra trong một bầu không khí rộn ràng và sôi động tại Tết mùa mưa (một trong bảy cái Tết trong năm theo phong tục cổ truyền) của dân tộc Hà Nhì

Tá Ló San là bản đặc biệt khó khăn của xã Sín Thầu, tỉnh Điện Biên (trước sáp nhập thuộc xã Sen Thượng, huyện Mường Nhé). Bản có 27 hộ dân với 104 khẩu, chủ yếu là dân tộc Hà Nhì; tỷ lệ nghèo của bản hiện hơn 33%.

Mặc dù tỷ lệ nghèo hiện thấp hơn bình quân chung của dân tộc Hà Nhì nhưng bản Tả Ló San không có đủ điều kiện để phát triển kinh tế. Theo ông Pờ Xuân Mười, Trưởng bản Tả Ló San, cả bản chỉ có khoảng 17ha đất nông nghiệp, hệ thống kênh mương chưa có khiến năng suất cây trồng thấp.

"Bản chưa có điện lưới quốc gia, đường nội bản chưa hoàn thiện,… ảnh hưởng lớn đến đời sống sinh hoạt và phát triển kinh tế của người dân", ông Mười chia sẻ.

Ngoài ra, điều kiện sống ở bản Tả Ló San cũng đang ở mức tối giản nhất. Cả bản có 27 nóc nhà thì hơn nửa là nhà tạm bợ; tỷ lệ hộ có nhà vệ sinh rất thấp; chăn nuôi gia súc gần nhà là phổ biến… Đây đều là những chỉ số tác động lớn mục tiêu cải thiện chất lượng dân số.

Trước thực trạng khó khăn của bản Tả Ló San, từ tháng 5/2025, với 1,66 tỷ đồng trích từ Quỹ Vì người nghèo, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Điện Biên đã xây dựng đề án riêng hỗ trợ bản Tả Ló San. Cùng với sửa chữa 16 căn nhà, đầu tư 500m đường nội bản thì Tả Ló San được hỗ trợ 1 bộ máy xay xát, xây 23 nhà tiêu hợp vệ sinh, làm mới 27 chuồng trại chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường.

NGHỊ ĐỊNH SỐ 255/2025/NĐ-CP: Định lượng cụ thể về suy giảm dân số (Bài 2)- Ảnh 5.

Di sản văn hóa truyền thống của dân tộc Giẻ Triêng vừa mang dấu ấn của cư dân Tây Nguyên vừa in đậm sắc thái Trường Sơn

Cấp bách xây dựng dữ liệu chuyên ngành

Theo báo cáo của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, thực hiện Quyết định số 39/2020/QĐ-TTg, tính đến tháng 11/2024, cả nước còn 7 dân tộc có tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi lớn hơn 33,2‰ (gồm: La Hủ, Hà Nhì, Co, Khơmú, Bru Vân Kiều, Gia rai, Giẻ Triêng); đồng thời có một số dân tộc có sự suy giảm dân số so với năm 2019 (như dân tộc La Hủ, dân tộc Hà Nhì).

Cũng cần thấy là, việc xác định dân tộc có khó khăn đặc thù cũng như dân tộc còn nhiều khó khăn là để "phân luồng" chính sách đầu tư, hỗ trợ cho đúng đối tượng, trúng nhu cầu. Đây là yếu tố then chốt để thực hiện được mục tiêu rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các dân tộc trong cộng đồng 53 DTTS.

Như ông Phí Mạnh Thắng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Dân tộc và Tôn giáo) đã chia sẻ, xây dựng quy định xác định dân tộc còn nhiều khó khăn, dân tộc có khó khăn đặc thù là để tiếp tục ưu tiên nguồn lực đầu tư, hỗ trợ trọng tâm, trọng điểm, giải quyết các vấn đề bức xúc, cấp bách nhất; ưu tiên hỗ trợ các nhóm dân tộc khó khăn nhất theo quy định tại Nghị quyết số 120/2020/QH14 phê duyệt Chương trình MTQG phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Trở lại vấn đề dân số để xác định dân tộc có khó khăn đặc thù, ngoài tiêu chí dưới 10 nghìn người thì Nghị định số 255/2025/NĐ-CP cũng kèm theo điều kiện rất chặt chẽ. Theo đó, nếu như không đáp ứng được tiêu chí có tỷ lệ hộ nghèo đa chiều lớn hơn tỷ lệ nghèo đa chiều của 53 DTTS thì dân tộc đó phải có dân số trong phạm vi toàn quốc theo dữ liệu quản lý dân cư giảm so với dân số trong phạm vi toàn quốc theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019.

Cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về dân cư được bắt đầu triển khai xây dựng năm 2020 (theo Quyết định số 366/QĐ-TTg), chính thức vận hành ngày 22/6/2021. Đây là nguồn thông tin thống nhất, chính xác về dữ liệu dân cư quốc gia, hỗ trợ tối đa cho công tác hoạch định chính sách.

Bộ Dân tộc và Tôn giáo là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc, tôn giáo. Tuy nhiên, theo báo cáo của Trung tâm Chuyển đổi số với Thứ trưởng Nguyễn Hải Trung tại buổi làm việc ngày 22/7/2025, CSDL chuyên ngành về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo đang trong quá trình xây dựng, chưa đồng bộ, gây khó khăn khi tích hợp với CSDL dân cư.

Vấn đề này cũng được thảo luận kỹ tại cuộc làm việc giữa Bộ Dân tộc và Tôn giáo với Nhóm công tác số 3 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngày 31/7/2025. Tại cuộc họp này, Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Đào Ngọc Dung khẳng định, xây dựng CSDL chuyên ngành dân tộc, tôn giáo là nhiệm vụ cấp bách.

"CSDL của Bộ Dân tộc và Tôn giáo tuy không liên quan đến thủ tục hành chính, nhưng rất quan trọng trong việc hoạch định chính sách, xây dựng chủ trương chính sách về dân tộc và tôn giáo", Bộ trưởng nhấn mạnh.

Sơn Hào