• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

NGHỊ ĐỊNH SỐ 255/2025/NĐ-CP: Đầu tư 'trúng' từ nhận diện đúng khó khăn đặc thù (Bài 1)

(Chinhphu.vn) - Tỷ lệ nghèo tiếp tục là một trong những tiêu chí “cứng” để nhận diện các dân tộc có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026-2030. Tuy nhiên, hiện việc đo lường tình trạng nghèo của từng dân tộc vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm.

25/10/2025 07:36
NGHỊ ĐỊNH SỐ 255/2025/NĐ-CP: Đầu tư 'trúng' từ nhận diện đúng khó khăn đặc thù (Bài 1)- Ảnh 1.

Chính sách chỉ phát huy hiệu quả khi được xây dựng trên nền tảng nhận diện chính xác, và đầu tư chỉ "trúng" khi xuất phát từ hiểu đúng khó khăn của từng dân tộc, từng vùng.

Nâng "mức trần" để không bỏ ai lại phía sau

Ngày 29/9/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 255/2025/NĐ-CP về tiêu xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026-2030. Với dân tộc có khó khăn đặc thù, tỷ lệ nghèo đa chiều là một trong những căn cứ để xác định.

Giai đoạn 2021-2025, tỷ lệ nghèo cũng là tiêu chí "cứng" để xác định dân tộc có khó khăn đặc thù theo Quyết định số 39/2020/QĐ-TTg ngày 31/12/2020 (sau đó, danh sách được phê duyệt tại Quyết định số 1227/QĐ-TTg). Tuy nhiên, việc định lượng tỷ lệ nghèo giữa hai giai đoạn có sự khác biệt lớn.

Nghị định số 255/2025/NĐ-CP quy định, dân tộc có tỷ lệ nghèo cao hơn mức bình quân của 53 DTTS được xác định là dân tộc có khó khăn đặc thù. Còn giai đoạn 2021-2025, tỷ lệ nghèo được quy định "cứng" là phải lớn hơn 1,5 lần so với bình quân chung của 53 DTTS (tại thời điểm ban hành Quyết định số 39/2020/QĐ-TTg, tỷ lệ nghèo tương ứng là trên 33,45%).

Như vậy, tỷ lệ hộ nghèo để xác định dân tộc có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026-2030 đã được nâng "mức trần", hướng tới mục tiêu xây dựng, thực thi chính sách bao phủ, phổ quát hơn. Với tỷ lệ hộ nghèo bình quân chung của 53 DTTS năm 2024 là 12,5% (được Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình MTQG công bố ngày 31/3/2025) thì sẽ có rất nhiều dân tộc đáp ứng được tiêu chí này.

Báo cáo tổng kết thực hiện Quyết định số 39/2020/QĐ-TTg của Bộ Dân tộc và Tôn giáo cho thấy, tính đến hết tháng 11/2024, 14/14 dân tộc có khó khăn đặc thù giai đoạn 2021-2025 đáp ứng đủ điều kiện về tiêu chí tỷ lệ nghèo để tiếp tục đưa vào danh sách cho giai đoạn tới. Ngoài ra có thêm 12/32 dân tộc còn nhiều khó khăn cũng đáp ứng điều kiện này.

NGHỊ ĐỊNH SỐ 255/2025/NĐ-CP: Đầu tư 'trúng' từ nhận diện đúng khó khăn đặc thù (Bài 1)- Ảnh 2.

Ông Phí Mạnh Thắng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Dân tộc và Tôn giáo) - Ảnh: VGP/Sơn Hào

Nhưng, ngoài tỷ lệ hộ nghèo thì dân số cũng là một tiêu chí để "sàng lọc" khó khăn đặc thù của từng dân tộc. Theo ông Phí Mạnh Thắng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Dân tộc và Tôn giáo), kế thừa Quyết định số 39/2020/QĐ-TTg, Nghị định số 255/2025/NQĐ-CP quy định dân tộc có khó khăn đặc thù là những dân tộc có dân số dưới 10 nghìn người.

Chiếu theo kết quả điều tra thông tin kinh tế-xã hội của 53 DTTS năm 2024 (được Bộ Dân tộc và Tôn giáo công bố tháng 7/2025) thì giai đoạn 2026-2030 có 13/14 dân tộc đáp ứng được tiêu chí này; dân tộc La Ha không đáp ứng do dân số đã tăng lên 10.841 người. Dân tộc La Hủ dù còn rất khó khăn nhưng hiện cũng đã có 10.314 nhân khẩu.

Theo ông Phí Mạnh Thắng, một điểm mới trong tiêu chí xác định dân tộc có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026-2030 là không quy định dân tộc đó phải sinh sống thành cộng đồng ở địa bàn đặc biệt khó khăn. Điều này là để bảo đảm công bằng trong thụ hưởng chính sách của những dân tộc có dân số dưới 10 nghìn người, tỷ lệ nghèo cao.

Giai đoạn 2021-2025, theo Quyết định số 39/2020/QĐ-TTg, dân tộc có khó khăn đặc thù phải sinh sống thành cộng đồng ở xã khu vực III, thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào DTTS và miền núi. Vì thế, dân tộc Brâu, dù đã được công nhận là dân tộc có khó khăn đặc thù tại Quyết định số 1227/QĐ-TTg, nhưng lại không được thụ hưởng chính sách theo Tiểu dự án 1, Dự án 9 của Chương trình MTQG 1719.

"Do đồng bào Brâu sinh sống tập trung ở làng Đắk Mế thuộc xã khu vực I Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum (nay là tỉnh Quảng Ngãi). Điều đó cho thấy, yếu tố địa bàn khi xác định dân tộc còn nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù của giai đoạn trước chưa phù hợp với điều kiện thực tế", ông Thắng chia sẻ.

NGHỊ ĐỊNH SỐ 255/2025/NĐ-CP: Đầu tư 'trúng' từ nhận diện đúng khó khăn đặc thù (Bài 1)- Ảnh 3.

Đồng bào Brâu thực hiện nghi thức mừng nhà mới

Giải bài toán về "độ vênh" tỷ lệ nghèo theo địa bàn

Giai đoạn 2021-2025, theo Quyết định số 1227/QĐ-TTg, cả nước có 14 dân tộc có khó khăn đặc thù sinh sống tại 11 tỉnh. Trừ dân tộc Brâu thì các địa bàn đặc biệt khó khăn có 13 dân tộc sinh sống tập trung đều đủ điều kiện để triển khai chính sách đầu tư, hỗ trợ theo Tiểu dự án 1, Dự án 9 của Chương trình MTQG 1719.

Qua 05 năm triển khai cho thấy, kết quả giảm nghèo giữa các dân tộc có khó khăn đặc thù chưa đồng đều. Theo số liệu của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, tính đến hết năm 2024, có 4/14 dân tộc có tỷ lệ hộ nghèo giảm so với năm 2019, trong đó dân tộc La Ha giảm sâu nhất (26%); nhưng có 9 dân tộc lại tăng tỷ lệ nghèo, cao nhất là dân tộc Lự (tăng 12%). Thậm chí, trong cùng một dân tộc, ở những địa bàn khác nhau, kết quả giảm nghèo cũng khác nhau.

NGHỊ ĐỊNH SỐ 255/2025/NĐ-CP: Đầu tư 'trúng' từ nhận diện đúng khó khăn đặc thù (Bài 1)- Ảnh 4.

Tỷ lệ hộ nghèo của dân tộc Lô Lô là 41,9%

Lô Lô là một trong 14 dân tộc có khó khăn đặc thù, sinh sống tập trung ở 02 tỉnh: Cao Bằng và Hà Giang. Theo báo cáo của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, tính đến hết năm 2024, dân tộc Lô Lô ở Hà Giang có 399 hộ thì có 94 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 23,6%; tỉnh Cao Bằng có 534 hộ thì có 297 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 55,6% (tính chung tỷ lệ hộ nghèo của dân tộc Lô Lô là 41,9%).

Ngay trên cùng một tỉnh, những địa bàn có đồng bào dân tộc Lô Lô sinh sống tập trung cũng có sự phát triển kinh tế-xã hội không đồng đều. Tại Cao Bằng, hiện có 9 xóm thuộc 3 xã có đồng bào dân tộc Lô Lô sinh sống tập trung được HĐND tỉnh phê duyệt tại Nghị quyết số 62/NQ-HĐND ngày 10/10/2025.

Tuy nhiên, hiện đời sống của đồng bào Lô Lô ở 9 xóm cũng có "độ vênh" khá lớn. Trong khi 8 xóm còn lại rất khó khăn thì ở xóm Khuổi Khon (xã Hưng Đạo), nơi sinh sống của 61 hộ đồng bào dân tộc Lô Lô, hiện chỉ còn 10 hộ nghèo.

Theo ông Nông Quốc Khôi, Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Cao Bằng, với lợi thế cảnh quan tươi đẹp, cơ sở hạ tầng được đầu tư, đồng bào Lô Lô ở Khuổi Khon đã khai thác bản sắc văn hóa truyền thống, phát triển du lịch công đồng. Còn những xóm khác, điều kiện tự nhiên khó khăn hơn, hành trình giảm nghèo cũng chông gai hơn.

Nhìn sang bản Lô Lô Chải (xã Lũng Cú, tỉnh Tuyên Quang), nơi có 99 hộ dân tộc Lô Lô sinh sống tập trung, để rõ hơn "độ vênh" trong phát triển kinh tế-xã hội của dân tộc Lô Lô. Theo ông Trần Đức Chung, Chủ tịch UBND xã Lũng Cú, tỷ lệ hộ nghèo của bản Lô Lô Chải đã giảm xuống dưới 10% vào năm 2024, dự kiến đến hết năm 2025 chỉ còn 2 hộ nghèo; thu nhập bình quân đầu người năm 2024 của bản đạt 46 triệu đồng.

Không riêng Lô Lô mà hiện các dân tộc có khó khăn đặc thù, theo từng địa bàn sinh sống, đang "vênh" nhau về tỷ lệ nghèo. Đơn cử, dân tộc Si La ở Lai Châu, tỷ lệ nghèo hiện là 29,9%, nhưng ở Điện Biên là 58,7%; dân tộc Bố Y ở Tuyên Quang là 16,2% thì ở Lào Cai là 28,2%;…

Đặc biệt, Chứt là một trong 2 dân tộc có khó khăn đặc thù có tỷ lệ giảm nghèo sâu trong giai đoạn 2019-2024 (giảm 16%), nhưng giữa các địa bàn có dân tộc Chứt sinh sống tập trung, kết quả giảm nghèo không giống nhau. Trong đó, ở Đăk Lắk, tỷ lệ nghèo của dân tộc Chứt là 12%; ở Hà Tĩnh là 46,7%; ở Quảng Trị là 54,1%.

NGHỊ ĐỊNH SỐ 255/2025/NĐ-CP: Đầu tư 'trúng' từ nhận diện đúng khó khăn đặc thù (Bài 1)- Ảnh 5.

Dân tộc Chứt là một trong những dân tộc ít người tại Việt Nam

Bảo đảm phân cấp, phân quyền trong quá trình rà soát

"Độ vênh" về tỷ lệ nghèo giữa các dân tộc và trong một dân tộc sinh sống khác địa bàn không chỉ là câu chuyện con số, mà sẽ quyết định đến hiệu quả của những chính sách đầu tư cho giai đoạn 2026-2030. Chính sách chỉ phát huy hiệu quả khi được xây dựng trên nền tảng nhận diện chính xác, và đầu tư chỉ "trúng" khi xuất phát từ hiểu đúng khó khăn của từng dân tộc, từng vùng.

Theo ông Phí Mạnh Thắng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Dân tộc và Tôn giáo), xác định các dân tộc khó khăn đặc thù là một trong những yếu tố quyết định để bảo đảm hoàn thành mục tiêu của Chương trình MTQG 1719 của cả giai đoạn. Nguyên tắc thực hiện là ưu tiên những nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026-2030.

Để bảo đảm nguyên tắc này, nhất là trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, những quy định về phân cấp, phân quyền trong lĩnh vực công tác dân tộc theo Nghị định số 124/2025/NĐ-CP cần được quán triệt. Theo ông Phí Mạnh Thắng, trong Nghị định số 124/2025/NĐ-CP, Bộ Dân tộc và Tôn giáo đã cắt giảm 78/108 thủ tục hành chính, đạt tỷ lệ 72,2%, vượt xa chỉ tiêu tối thiểu 30% mà Chính phủ đề ra.

Việc xác định dân tộc có khó khăn đặc thù, dân tộc còn nhiều khó khăn giai đoạn 2026-2030 tại Nghị định số 255/2025/NĐ-CP cũng được phân cấp, phân quyền rất rõ. Theo đó, cấp xã chịu trách nhiệm về tính chính xác của hồ sơ rà soát các dân tộc có khó khăn đặc thù, dân tộc còn nhiều khó khăn; cấp tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện về số liệu tổng hợp.

Sau khi nhận được hồ sơ của địa phương, Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo chỉ đạo rà soát, tổng hợp và ban hành Quyết định phê duyệt danh sách các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 - 2030 trên phạm vi toàn quốc (giai đoạn 2021-2025 thuộc thẩm quyền của Thủ tướng).

Sơn Hào

Bài 2: Định lượng cụ thể về suy giảm dân số