Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Trước hết, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái trân trọng cảm ơn các vị đại biểu Quốc hội, đồng bào, cử tri cả nước đã cơ bản đồng tình và có nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc, trách nhiệm về các đề án luật, báo cáo của Chính phủ.
Nội dung Báo cáo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các báo cáo của các cơ quan của Quốc hội và hầu hết các ý kiến phát biểu thảo luận tại Tổ, Hội trường đều đánh giá cao những thành quả trong việc kiểm soát dịch COVID-19, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn cũng như các chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, trật tự, an toàn xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh rất nhiều khó khăn, thách thức, những thành tựu, kết quả đạt được trong năm 2022 và những tháng đầu năm 2023 đã góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đồng thời, các vị đại biểu Quốc hội và đồng bào, cử tri cũng đề cập đến những tồn tại, hạn chế, bất cập trên nhiều lĩnh vực.
Chính phủ xin trân trọng lắng nghe và nghiêm túc tiếp thu để tập trung khắc phục và giải quyết hiệu quả hơn. Trong 2 ngày qua, đã có 04 Bộ trưởng trực tiếp trả lời chất vấn; 02 Phó Thủ tướng và nhiều thành viên Chính phủ tham gia giải trình, trả lời chất vấn.
Theo phân công của Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái báo cáo cập nhật tình hình kinh tế - xã hội (KTXH) tháng 5 năm 2023 và tiếp thu, giải trình một số vấn đề được đại biểu Quốc hội và đồng bào, cử tri quan tâm, chất vấn.
Thứ nhất, về cập nhật tình hình KTXH, Phó Thủ tướng cho biết, đầu kỳ họp, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội về tình hình KTXH 4 tháng đầu năm 2023.
Trong tháng 5 và những ngày đầu tháng 6, trước tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, nền kinh tế chịu tác động kép, vừa phải chống chịu với sức ép từ cả bên trong và bên ngoài, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội và đạt được những kết quả tích cực.
Cụ thể là, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát (CPI tiếp tục xu hướng giảm, bình quân 5 tháng ở mức 3,55%); các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 5 tăng 2,2% so với tháng 4 và tăng 0,1% so với cùng kỳ; khu vực nông nghiệp phát triển ổn định; thương mại, dịch vụ tiếp tục phục hồi nhanh.
Đáng chú ý, giải ngân vốn đầu tư công 5 tháng đạt 22,2% kế hoạch, tương đương cùng kỳ năm 2022, nhưng số tuyệt đối cao hơn 41 nghìn tỷ đồng; thu hút vốn FDI tháng 5 đạt gần 2 tỷ USD, gấp 2,2 lần cùng kỳ. Số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động đạt khoảng 95 nghìn doanh nghiệp,...
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại được chú trọng, tăng cường. Các tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá tích cực đối với triển vọng kinh tế Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta còn không ít hạn chế, bất cập và gặp nhiều khó khăn, thách thức, đúng như nhiều vị đại biểu Quốc hội đã nêu, như tiếp cận vốn của các doanh nghiệp, đứt gãy các chuỗi cung ứng, thị trường lao động, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản còn bất cập; thiếu điện cục bộ; đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn; một bộ phận cán bộ có tư tưởng né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm, sợ sai...
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xin lắng nghe, tiếp thu và tiếp tục bám sát các mục tiêu theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội để cụ thể hóa và chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương căn cứ vào chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, chủ động, kịp thời thực hiện nghiêm túc, hiệu quả những nhiệm vụ, giải pháp trong các lĩnh vực, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, vượt qua thách thức, phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu kế hoạch năm 2023.
Thứ hai, về điều hành kinh tế vĩ mô, Phó Thủ tướng nêu rõ, hiện nay thế giới đang phải khắc phục hậu quả đại dịch COVID-19; chống lạm phát, tăng lãi suất; tổng cầu và tổng cung toàn cầu suy giảm; giá hàng hóa cơ bản, dầu thô tiếp tục biến động; cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt.
Trong khi đó, nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, các hạn chế, yếu kém của nền kinh tế khi gặp khó khăn sẽ bộc lộ rõ hơn. Chúng ta lại vừa khắc phục những tồn tại, bất cập kéo dài, vừa thực hiện nhiệm vụ thường xuyên nặng nề hơn, vừa phải thích ứng, đối phó với những thách thức mới, nhất là những vấn đề chưa có tiền lệ.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ sẽ kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; đồng thời chú trọng các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm đời sống Nhân dân.
Thực hiện chính sách tiền tệ chắc chắn, chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; phối hợp chặt chẽ, hài hòa với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác.
Tăng cường năng lực phân tích, dự báo; chủ động ứng phó, phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả với những vấn đề phát sinh; tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp thúc đẩy các động lực tăng trưởng về tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình giá cả, thị trường, bảo đảm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra.
Tiếp tục quyết liệt tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Khẩn trương rà soát, xử lý ngay những vướng mắc, bất cập; đồng thời đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm, tăng cường vai trò của các địa phương trong triển khai các dự án đầu tư công, Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, 03 Chương trình mục tiêu quốc gia; phấn đấu tỷ lệ giải ngân đạt tối thiểu 95% kế hoạch; tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; tận dụng tốt các cơ hội để thúc đẩy phục hồi và phát triển KTXH nhanh, bền vững.
Thứ ba, về an sinh xã hội, lao động, việc làm, Phó Thủ tướng nhấn mạnh: Bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống Nhân dân được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm; nhiều cơ chế, chính sách được ban hành, triển khai thực hiện hiệu quả và đã đạt được những thành tựu quan trọng, được Nhân dân cả nước, cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, tình trạng người lao động bị mất việc, giảm giờ làm xảy ra cục bộ tại một số địa phương và trong một số ngành nghề; trong 5 tháng đầu năm có 510 nghìn lao động bị ảnh hưởng, trong đó 279 nghìn lao động bị thôi việc, mất việc. Việc chậm đóng, trốn đóng và rút bảo hiểm xã hội một lần gia tăng...
Thời gian tới, Chính phủ tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khắc phục đứt gãy các chuỗi cung ứng, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm duy trì và tạo thêm việc làm cho người lao động.
Thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 10/01/2023 của Chính phủ về phát triển thị trường lao động; theo dõi sát tình hình người lao động bị mất việc, thôi việc, giảm giờ làm... để có phương án hỗ trợ phù hợp. Đẩy mạnh đào tạo và đào lại, chú trọng các chính sách tạo việc làm, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường lao động.
Thực hiện lộ trình cải cách tiền lương; xây dựng phương án điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng phù hợp.
Đồng thời, tiếp tục rà soát, hoàn thiện và thực hiện hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ người lao động gặp khó khăn; báo cáo cấp có thẩm quyền về các cơ chế, chính sách hỗ trợ mới trong trường hợp cần thiết.
Thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ và hội nhập; làm tốt công tác an toàn, vệ sinh lao động và quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam.
Chú trọng bảo vệ quyền lợi của người lao động trong khu vực phi chính thức; khuyến khích và hỗ trợ người lao động ký kết hợp đồng lao động, tham gia bảo hiểm xã hội. Giám sát hiệu quả các ngành nghề, đơn vị thuê lao động phi chính thức trong việc bảo đảm an toàn lao động và các điều kiện làm việc tối thiểu.
Khẩn trương nghiên cứu, hoàn thiện trình Quốc hội dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 6 tới đây, bảo đảm và nâng cao quyền lợi người tham gia bảo hiểm xã hội cùng với tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức để hạn chế tình trạng rút bảo hiểm xã hội một lần.
Kiên quyết xử lý các cá nhân, doanh nghiệp cố tình chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội.
Thứ tư, về cải cách thủ tục hành chính và thúc đẩy chuyển đổi số, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái nhấn mạnh: Cải cách thủ tục hành chính (TTHC) là một nhiệm vụ trọng tâm, được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung chỉ đạo và các bộ, ngành, địa phương thực hiện ngày càng nề nếp, đạt kết quả đáng ghi nhận. Từ năm 2021 đến nay, đã cắt giảm, đơn giản hóa gần 400 TTHC, hơn 2.200 quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh.
Đặc biệt, cải cách TTHC gắn với chuyển đổi số đạt được những kết quả nổi bật: tích hợp, cung cấp hơn 4.400 dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia và 21/25 dịch vụ công thiết yếu; việc số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC được đẩy mạnh...
Tuy nhiên, TTHC của nhiều ngành, lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp gây khó khăn, tăng chi phí tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp; việc cắt giảm, đơn giản hóa, nhất là TTHC nội bộ còn chậm; còn phát sinh một số TTHC mới; việc triển khai số hóa, kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ giải quyết TTHC trong một số lĩnh vực còn cát cứ, cục bộ, chưa đáp ứng yêu cầu, thậm chí tiêu cực...
Thời gian tới, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo tập trung rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, nhất là các quy định đang là rào cản đối với sản xuất kinh doanh (đến năm 2025 giảm ít nhất 20% quy định và 20% chi phí tuân thủ); yêu cầu thực hiện nghiêm việc đánh giá tác động, thẩm định, thẩm tra quy định về TTHC.
Tăng cường phân cấp, ủy quyền trong giải quyết TTHC và tái cấu trúc quy trình cung cấp dịch vụ công. Tập trung rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa TTHC nội bộ (đến năm 2025 giảm tối thiểu 20%).
Thực hiện tốt công tác tiếp nhận, giải quyết kiến nghị của người dân, doanh nghiệp; xử lý nghiêm những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực.
Triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số, công dân số.
Chú trọng hoàn thiện thể chế để phù hợp với phương pháp làm việc, phương thức chỉ đạo, điều hành trên môi trường số; xây dựng, hoàn thiện các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành; đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước; tăng cường bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng; thúc đẩy số hóa, triển khai dịch vụ công trực tuyến toàn trình trên Cổng Dịch vụ công quốc gia.
Thứ năm, về việc tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với nâng cao trách nhiệm, gắn với bảo đảm nguồn lực, năng lực thực hiện pháp luật cho các bộ, ngành, địa phương.
Đồng thời trình Quốc hội ban hành các nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù cho một số địa phương như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Hải Phòng, Cần Thơ, Nghệ An, Thanh Hóa… để tạo sự chủ động cho chính quyền địa phương phát huy nguồn lực trong phát triển KTXH.
Tuy nhiên, như các vị đại biểu Quốc hội đã nêu, việc phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương chưa thực sự đồng bộ, nhất quán, nhất là trong lĩnh vực đầu tư công, đầu tư, đất đai, quản lý rừng, xây dựng, tài chính, tổ chức biên chế, lao động…
Nguyên nhân chủ yếu do các quy định pháp luật liên quan chưa được hoàn thiện, điều chỉnh kịp thời; một số bộ, ngành còn chưa đổi mới tư duy về phân cấp, phân quyền; công tác kiểm tra, giám sát chưa tích cực, chủ động, thậm chí có nơi, có lúc còn buông lỏng…
Thời gian tới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tiếp tục tập trung thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, bố trí nguồn lực phù hợp gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực;
Tiếp tục thực hiện hiệu quả 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu theo Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền.
Trình Quốc hội về việc tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, nhất là trong lĩnh vực đầu tư công, đất đai, xây dựng, đất công nghiệp, đất lúa, đất rừng…
Qua đó, góp phần nâng cao vai trò, trách nhiệm trực tiếp của các bộ, ngành, địa phương, nhất là người đứng đầu trong công tác quản lý nhà nước và thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KTXH đã đề ra.
Thứ sáu, về tăng năng suất lao động xã hội, Phó Thủ tướng nhấn mạnh: Tăng năng suất lao động là yêu cầu cấp bách, khách quan, góp phần thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, thực chất, hiệu quả.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành, thực hiện nhiều cơ chế, chính sách và đã đạt một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất lao động xã hội năm 2022 ở mức 4,8%, không đạt mục tiêu đề ra là khoảng 5,5%.
Nguyên nhân chủ yếu là do trình độ khoa học công nghệ trong nhiều ngành, lĩnh vực còn lạc hậu, chưa theo kịp khu vực, thế giới; chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, nhất là nhân lực chất lượng cao; hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
Cơ cấu kinh tế, cơ cấu nội ngành còn nhiều bất cập; chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang các khu vực công nghiệp, dịch vụ còn chậm. Đồng thời, do phương pháp tính bằng GDP/tổng số người làm việc bình quân nên năng suất lao động cũng bị ảnh hưởng do yếu tố đặc thù của năm 2022 là lực lượng lao động có việc làm tăng mạnh sau khi kiểm soát thành công đại dịch COVID-19.
Thời gian tới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp tăng năng suất lao động, trong đó tập trung phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao.
Chú trọng phát triển kỹ năng mềm, ngoại ngữ, kỹ năng số, thích ứng với xu thế phát triển của công nghệ, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thúc đẩy xã hội hóa, thu hút nguồn lực cho phát triển giáo dục, đào tạo; khuyến khích doanh nghiệp tham gia từ khâu đào tạo, thực hành đến sử dụng.
Đẩy mạnh thực hiện phân luồng giáo dục và mở rộng cơ hội cho người lao động tiếp tục học tập, nâng cao trình độ. Hình thành hệ thống đào tạo thực hành trình độ cao, hội nhập quốc tế. Triển khai đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thúc đẩy nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ. Khẩn trương hoàn thiện các chính sách, pháp luật. Tạo lập khuôn khổ pháp lý triển khai các cơ chế thí điểm, thử nghiệm và đặc thù đối với các loại hình, mô hình kinh doanh mới và các quỹ đầu tư mạo hiểm phát triển khoa học công nghệ.
Tăng cường bảo hộ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ và thúc đẩy phát triển thị trường khoa học công nghệ. Chú trọng nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Sửa đổi đồng bộ các quy định pháp luật về thuế, tài chính, tín dụng… để triển khai có hiệu quả các cơ chế ưu đãi đối với doanh nghiệp cho đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ. Hoàn thiện hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.
Rà soát, ưu tiên bố trí nguồn lực và có các giải pháp khả thi thu hút nhân lực chất lượng cao. Phát triển mạnh doanh nghiệp trong nước có tính kết nối cao, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, cung ứng toàn cầu.
Thứ bẩy, về rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, Phó Thủ tướng nêu rõ: Công tác rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất kinh doanh, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đặc biệt quan tâm và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; có nhiều đổi mới, sát thực tiễn, góp phần xử lý kịp thời, hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển KTXH.
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Chính phủ đã chỉ đạo rà soát, trình Quốc hội thông qua 01 luật sửa 9 luật để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất, kinh doanh, khơi thông nguồn lực.
Để chuẩn bị cho Kỳ họp này, Chính phủ đã dành nhiều thời gian nghiên cứu, thảo luận và tích cực hoàn thiện, trình nhiều dự án luật, nghị quyết quan trọng như: Luật Đất đai, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Đấu thầu, Luật Giá, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Viễn thông, Nghị quyết về giảm 2% thuế giá trị gia tăng…
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành và quyết liệt chỉ đạo triển khai hàng loạt giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, nhất là đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, triển khai các dự án hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia;
Gia hạn nộp thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất; cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, giảm lãi suất cho vay, tăng khả năng tiếp cận tín dụng;
Xử lý bất cập, điểm nghẽn của thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp và trong đấu thầu, mua sắm thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế;
Khai thác hiệu quả thị trường trong nước, tăng cường xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường chuyển đổi số; triển khai gói tín dụng nhà ở xã hội 120.000 tỷ đồng…
Mặc dù có những chuyển biến tích cực và phát huy hiệu quả bước đầu, nhưng nhìn chung quy định pháp luật trong một số lĩnh vực vẫn chưa được sửa đổi, hoàn thiện kịp thời, xử lý triệt để, như về phân cấp, phân quyền, đầu tư, bất động sản, nhà ở; thủ tục hành chính về đầu tư, kinh doanh, cung ứng các dịch vụ công...
Hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn, nhất là sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, đầu tư tư nhân trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài; chi phí sản xuất trong một số ngành, lĩnh vực tăng cao…
Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục tập trung rà soát, hoàn thiện thể chế, quy định pháp luật. Trong đó trình cấp có thẩm quyền xem xét việc mở rộng thí điểm tách giải phóng mặt bằng, bồi thường, tái định cư thành dự án độc lập; tăng thẩm quyền cho địa phương và việc sử dụng ngân sách địa phương trong đầu tư phát triển các dự án kết cấu hạ tầng...
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện, chủ động ban hành các cơ chế, chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; xử lý hiệu quả vướng mắc, bất cập, nhất là đối với các dự án công nghiệp, xây dựng, thương mại, bất động sản, các lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, trái phiếu doanh nghiệp.
Quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh, tăng cường trách nhiệm và rà soát, xử lý các kiến nghị, đề xuất của địa phương, bộ, ngành, người dân, doanh nghiệp.
Thứ tám, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong bối cảnh thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; tình hình bất ổn, xu hướng phân nhóm, phân cực gia tăng; cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt; các vấn đề an ninh phi truyền thống, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ngày càng gây hậu quả nặng nề; tình hình trên biển, trong khu vực tiềm ẩn nguy cơ diễn biến phức tạp… Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương bám sát các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; theo dõi sát diễn biến tình hình quốc tế, khu vực.
Chủ động có giải pháp, đối sách phù hợp, không để bị động, bất ngờ; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Tăng cường công tác đối ngoại, chú trọng đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết và đẩy mạnh đàm phán, ký kết các FTA mới;
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, thực chất, hiệu quả; gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước.
Thứ chín, về xử lý tình trạng cán bộ đùn đẩy, né tránh, sợ trách nhiệm, Phó Thủ tướng nhấn mạnh: Công tác cán bộ là một nhiệm vụ then chốt của cả hệ thống chính trị, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta.
Nhờ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền từ trung ương đến địa phương, về tổng thể, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngày càng được nâng lên.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, xảy ra tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức né tránh, đùn đẩy công việc; có tâm lý e ngại, sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám tham mưu, đề xuất xử lý công việc, không quyết định công việc thuộc thẩm quyền.
Có trường hợp đẩy việc lên cấp trên hoặc sang các cơ quan khác, thiếu sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả giữa các bộ, cơ quan, địa phương, chủ yếu trong các lĩnh vực đầu tư công, quản lý đất đai, bất động sản, mua sắm công, đầu tư, định giá, cung ứng các dịch vụ trực tiếp liên quan đến người dân và doanh nghiệp...
Tình trạng này dẫn đến quá trình xử lý công việc bị kéo dài, gây lãng phí thời gian, nguồn lực, cơ hội phát triển, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, gây cản trở công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp.
Cá biệt có nơi còn trì trệ, làm suy giảm niềm tin của người dân và doanh nghiệp đối với cơ quan nhà nước, ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển KTXH đã đề ra.
Thời gian tới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung khắc phục những hạn chế, bất cập, yếu kém nêu trên. Quán triệt và tiếp tục thực hiện đầy đủ, nghiêm túc Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Quy chế làm việc của Chính phủ, của các bộ, ngành, địa phương.
Khẩn trương rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật để tạo môi trường, hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ, minh bạch, an toàn cho các bộ, cơ quan, địa phương, cán bộ, công chức, viên chức yên tâm thực hiện chức trách, nhiệm vụ và thực thi công vụ theo quy định.
Tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với cá thể hóa trách nhiệm, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; kiên quyết không để xảy ra việc đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động công vụ, nhất là thanh tra, kiểm tra đột xuất.
Biểu dương, khen thưởng kịp thời đối với tổ chức, cá nhân các cơ quan, tập thể, cán bộ, công chức quyết liệt trong thi hành công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ, dám nói, dám nghĩ, dám làm, chủ động, sáng tạo vì lợi ích chung.
Kịp thời rà soát, xử lý, thay thế hoặc điều chuyển sang công việc khác đối với cán bộ, công chức năng lực yếu, không dám làm, né tránh, đùn đẩy, thiếu trách nhiệm./.
Trần Mạnh