• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Quốc hội dự kiến thông qua 5 đạo luật tạo khung pháp lý cho AI, chuyển đổi số, công nghệ cao

(Chinhphu.vn) - Việc Quốc hội chuẩn bị thông qua đồng thời 5 dự án luật trụ cột về chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ cao, chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ, nối tiếp 5 luật đã được thông qua trước đó cho thấy quyết tâm chính trị rất cao trong việc “đi trước một bước về thể chế”, tạo nền tảng pháp lý mới cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.

09/12/2025 18:03
Quốc hội dự kiến thông qua 5 đạo luật tạo khung pháp lý cho AI, chuyển đổi số, công nghệ cao- Ảnh 1.

Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Trí tuệ nhân tạo chiều 27/11 - Ảnh: VGP/TG

Trong đó, Luật Trí tuệ nhân tạo lần đầu tiên đặt ra một khung khổ pháp lý tương đối toàn diện cho phát triển, ứng dụng và quản trị trí tuệ nhân tạo (AI).

Dự luật xác định rõ các nguyên tắc cơ bản trong quản lý và sử dụng AI: Lấy con người làm trung tâm; bảo đảm an toàn, an ninh, quyền riêng tư; tăng cường trách nhiệm giải trình của tổ chức, cá nhân triển khai hệ thống AI; yêu cầu minh bạch trong quá trình huấn luyện, thử nghiệm, vận hành các mô hình, đặc biệt là mô hình AI quy mô lớn.

Một nội dung quan trọng của luật là định hướng quản lý theo mức độ rủi ro. Theo đó, các hệ thống AI được phân loại theo mức độ tác động và nguy cơ, từ đó gắn với nghĩa vụ pháp lý tương ứng. Những ứng dụng có nguy cơ cao đối với quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (trong lĩnh vực tài chính, y tế, tư pháp, lao động, giáo dục…) sẽ phải đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe hơn về dữ liệu, kiểm định, giám sát và cơ chế can thiệp của con người.

Cách tiếp cận này cho phép cân bằng giữa hai mục tiêu: Khuyến khích đổi mới sáng tạo trong AI và kiểm soát các hệ lụy tiềm ẩn đối với xã hội.

Song song với đó, dự luật cũng bước đầu đề cập tới những vấn đề mới như nội dung do AI sinh ra, đạo đức thuật toán, trách nhiệm của các nền tảng khi cung cấp dịch vụ AI xuyên biên giới, đặt nền móng để Việt Nam chủ động hội nhập với các chuẩn mực quốc tế nhưng vẫn giữ vững chủ quyền số và lợi ích quốc gia.

Luật Chuyển đổi số đóng vai trò “trụ cột hạ tầng thể chế” cho toàn bộ tiến trình chuyển đổi số quốc gia.

Dự luật lần đầu tiên xác lập những chuẩn mực pháp lý về dữ liệu mở, danh tính số, giao dịch số, dịch vụ công trực tuyến toàn trình và an toàn hệ thống thông tin trong môi trường số.

Về dữ liệu, dự luật định hình rõ hơn khái niệm và phạm vi dữ liệu mở, trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong chia sẻ dữ liệu để thúc đẩy minh bạch, giám sát xã hội và hình thành thị trường dữ liệu lành mạnh.

Về danh tính số, dự luật hướng tới việc xây dựng một nền tảng danh tính thống nhất, tin cậy, phục vụ xác thực trong mọi giao dịch điện tử, từ thủ tục hành chính, tài chính – ngân hàng cho đến thương mại điện tử và các dịch vụ số khác.

Luật Chuyển đổi số cũng làm rõ yêu cầu dịch vụ công trực tuyến toàn trình, nghĩa là người dân, doanh nghiệp có thể thực hiện trọn vẹn quy trình thủ tục trên môi trường số, không phải nộp lại nhiều lần các thông tin, giấy tờ đã có trong cơ sở dữ liệu nhà nước.

Cùng với đó là hệ thống các quy định về an toàn, an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân, phòng ngừa các hành vi lợi dụng nền tảng số để vi phạm pháp luật, gây rối loạn thị trường hoặc xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Quốc hội dự kiến thông qua 5 đạo luật tạo khung pháp lý cho AI, chuyển đổi số, công nghệ cao- Ảnh 2.

Quốc hội thảo luận tại hội trường về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ; Dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi) ngày 21/11 - Ảnh: VGP/TG

Tạo một chuỗi chính sách khép kín 

Trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, Luật Công nghệ cao (sửa đổi) được kỳ vọng tạo xung lực mới cho phát triển các ngành cốt lõi như chip, bán dẫn, vật liệu mới, công nghệ sinh học, tự động hóa thông minh.

Sau gần hai thập niên triển khai, nhiều quy định của Luật Công nghệ cao 2008 như ưu đãi, danh mục công nghệ, mô hình khu công nghệ cao đã bộc lộ hạn chế trước sự phát triển nhanh của công nghệ và cạnh tranh toàn cầu. Dự luật theo hướng điều chỉnh, cập nhật, mở rộng phạm vi “công nghệ cao” phù hợp bối cảnh mới; đồng thời đơn giản hóa một số thủ tục, gắn ưu đãi với tiêu chí hiệu quả, đổi mới sáng tạo và khả năng lan tỏa công nghệ.

Các cơ chế khuyến khích hình thành trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm công nghệ, khu công nghệ cao tích hợp nghiên cứu – sản xuất – dịch vụ được nhấn mạnh, qua đó tạo hệ sinh thái thuận lợi để doanh nghiệp công nghệ trong nước phát triển, thu hút dự án FDI chất lượng cao, gắn với chuyển giao tri thức và năng lực.

Một điểm đáng chú ý là dự luật tăng cường liên kết giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp công nghệ cao, coi đây là “tam giác” trọng tâm của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Cơ chế ưu đãi, hỗ trợ được thiết kế để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào R&D, đặt hàng nghiên cứu và thử nghiệm công nghệ mới ngay tại Việt Nam.

Gắn liền với công nghệ cao là bài toán chuyển giao và hấp thụ công nghệ. Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi, bổ sung một số điều) tập trung giải quyết những vướng mắc lâu nay trong thương mại hóa kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ giữa các chủ thể trong và ngoài nước.

Dự luật điều chỉnh theo hướng chuyển mạnh từ tư duy “kiểm soát” sang “thúc đẩy đổi mới sáng tạo”, tạo môi trường thuận lợi hơn cho các giao dịch công nghệ. Các quy định về định giá công nghệ, góp vốn bằng công nghệ, phân chia lợi ích từ khai thác công nghệ, chia sẻ rủi ro trong hợp tác nghiên cứu – phát triển được làm rõ, nhằm biến công nghệ thành một loại tài sản có thể định giá và giao dịch minh bạch trên thị trường.

Bên cạnh đó, luật sửa đổi cũng nhấn mạnh tiêu chí công nghệ xanh, công nghệ sạch, công nghệ tiết kiệm năng lượng, phù hợp cam kết phát thải ròng bằng “0” của Việt Nam, qua đó ưu tiên thu hút, chuyển giao các công nghệ thân thiện môi trường, ít phát thải, nâng cao chất lượng tăng trưởng.

Ở “đầu ra” của đổi mới sáng tạo, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ giữ vai trò then chốt trong việc biến tri thức và kết quả nghiên cứu thành tài sản và nguồn lực phát triển.

Trong bối cảnh tài sản trí tuệ ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong giá trị doanh nghiệp và trong cạnh tranh quốc tế, yêu cầu đặt ra là khuôn khổ pháp luật phải theo kịp thực tiễn của kinh tế số, dữ liệu lớn và công nghệ AI. Việc sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ lần này hướng đến: Tiếp tục hài hòa quy định trong nước với các cam kết quốc tế; làm rõ phạm vi và chế độ bảo hộ một số đối tượng quyền; nâng cao tính minh bạch, khả thi của cơ chế xác lập, khai thác và thực thi quyền.

Đặc biệt, các nội dung liên quan đến bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trong môi trường số; bảo vệ nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp; xử lý hành vi xâm phạm quyền trên không gian mạng và trong môi trường AI được chú trọng, nhằm bảo đảm người sáng tạo, nhà khoa học, doanh nghiệp được hưởng lợi xứng đáng từ thành quả trí tuệ của mình. 

Nhờ đó, sự gắn kết giữa Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công nghệ và Luật Công nghệ cao được tăng cường, tạo thành một chuỗi chính sách khép kín từ nghiên cứu – phát triển, bảo hộ quyền, chuyển giao – thương mại hóa đến mở rộng sản xuất, kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ.

Trước đó, tại Kỳ họp thứ 9, Khóa XV, Quốc hội đã thông qua 5 luật là: Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Luật Công nghiệp Công nghệ số; Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (sửa đổi); Luật Quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật Việt Nam (sửa đổi) và Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi). 

Việc liên tiếp hoàn thiện hệ thống pháp luật ở các trụ cột này cho thấy quyết tâm của Quốc hội và Chính phủ trong việc tạo dựng một môi trường thể chế đồng bộ, tiên tiến, làm nền tảng để khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thực sự trở thành động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế – xã hội trong giai đoạn tới.

Thu Giang