• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Sản xuất theo GAP để nâng giá trị chè Việt

(Chinhphu.vn) - "Xu hướng tất yếu của ngành chè nói chung và chè Thái Nguyên nói riêng là phải tăng cường đưa giống mới vào sản xuất, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Muốn vậy, phải sản xuất theo quy trình GAP".

16/11/2011 15:10

Việc sản xuất theo quy trình VietGAP giúp tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm từ 10 - 15% so với chè thông thường. - Ảnh minh họa

Đó là nhận định của TS. Lê Quốc Doanh, Phó giám đốc Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam tại "Hội thảo quốc tế chè Thái Nguyên, Việt Nam 2011" được tổ chức trong khuôn khổ Liên hoan Trà quốc tế lần thứ nhất.

Ông Đặng Viết Thuần, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên cũng cho biết Thái Nguyên hiện có 17.660ha chè, năng suất năm 2010 đạt 107 tạ/ha, sản lượng chè búp tươi đạt 172.000 tấn. Tuy nhiên, việc chế biến chè ở Thái Nguyên vẫn chủ yếu theo phương pháp thủ công, thị trường tiêu thụ chính là nội địa. Lượng chè xuất khẩu ít và giá trị không cao.

Các đại biểu cũng cho rằng, nguyên nhân khiến giá chè của Việt Nam thấp là do ngành chè còn nghèo nàn về chủng loại, chất lượng, mẫu mã; các hộ dân chưa chú trọng kỹ thuật canh tác, mức đầu tư thấp... Vì vậy, điều kiện tiên quyết của ngành chè Việt Nam là phải tuân thủ nghiêm ngặt từ khâu tuyển chọn giống, sản xuất cho tới thu hái, chế biến, đặc biệt là phải thực sự an toàn và sạch.

Ông Manuja Peiris, Giám đốc điều hành Uỷ ban Chè thế giới cho rằng, phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình VietGAP chứ không chỉ là "đánh bóng" thương hiệu rồi cấp chứng nhận bừa bãi, vì đây là yếu tố quyết định sự sống còn của thương hiệu chè Thái Nguyên cũng như của ngành chè Việt Nam.

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hồ Xuân Hùng, trước mắt, ngành chè Việt Nam còn rất nhiều thách thức, để đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ chè, chúng ta cần chú trọng khâu giống đầu tiên. Thực tế, Việt Nam có bộ giống khá đa dạng với 173 loại giống cho chất lượng và năng suất cao, nhưng diện tích còn thấp. Nhiều nơi, bà con vẫn giữ những vườn chè cũ, nhiều sâu bệnh, năng suất thấp, dẫn tới khả năng cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến rất hạn chế.

Đặc biệt, vấn đề dư lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trên chè cần được giải quyết một cách nhanh chóng, bởi đây là nguyên nhân chính làm cho chè Việt Nam chưa có uy tín trên thị trường thế giới. Giải quyết được vấn đề trên cũng đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng, giá trị của chè Việt cũng như đảm bảo được quyền lợi của người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Theo ông Hồ Xuân Hùng, phát triển chè hữu cơ, chè an toàn, đẩy mạnh thâm canh các giống chè đặc sản là con đường duy nhất để đạt được những mục tiêu đó. Và đó cũng là một trong những mục tiêu cần hướng tới để tạo nên nền nông nghiệp bền vững.

Được biết, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đưa ra 5 giải pháp để hỗ trợ ngành chè: Thứ nhất, tiến hành quy hoạch phát triển chè; Thứ hai, tăng cường công tác khoa học công nghệ và chuyển giao kỹ thuật trong sản xuất và chế biến chè; Thứ ba, tăng cường công tác hợp tác quốc tế, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ chè; Thứ tư, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến chè theo quy hoạch và từng bước hiện đại hóa các cơ sở đã có theo hướng tăng nhanh tỷ lệ các sản phẩm chè tinh chế, bảo đảm đủ công suất chế biến có chất lượng cao và đa dạng hóa sản phẩm; Thứ năm, tái tổ chức sản xuất ngành chè.

Các tiêu chí về VietGAP trên chè cũng khắt khe như các loại nông sản khác, gồm 12 nội dung như đánh giá và lựa chọn vùng trồng chè; mẫu đất, mẫu nước, quản lý thuốc bảo vệ thực vật và hóa chất. Tất cả phải ghi chép, lưu trữ hồ sơ, kiểm tra và chịu trách nhiệm về sản phẩm, không phải hộ nông dân hoặc cơ sở sản xuất nào cũng có thể làm được.

Để có được chứng nhận VietGAP, bà con cần phải hoàn thành hồ sơ đăng ký với tư cách trang trại hoặc hợp tác xã, hay tổ hợp tác. Tuy nhiên, việc sản xuất theo quy trình VietGAP giúp tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm từ 10 - 15% so với chè thông thường.

Vũ Trọng