Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
![]() |
Một trạm xử lý nước thải được đầu tư |
Công nghệ xử lý còn lạc hậu
Mỗi ngày trên địa bàn Hà Nội thải hơn 260.000m3 nước thải công nghiệp, còn hệ thống sông Đồng Nai phải tiếp nhận khoảng 1,5 triệu m3 nước thải công nghiệp.
Ông Đặng Văn Lợi cũng cho biết thêm, có khoảng 30% cơ sở sản xuất công nghiệp (chủ yếu là các cơ sở sản xuất vừa và lớn) có trạm xử lý nước thải nhưng hầu hết cơ sở vận hành chưa đạt tiêu chuẩn hoặc không vận hành thường xuyên. Tính đến năm 2011, cả nước có 180 khu công nghiệp đang hoạt động, trong đó, 65% có hệ thống xử lý nước thải.
Về rác thải sinh hoạt, tổng lượng chất thải rắn phát sinh ở các đô thị khoảng gần 30.000 tấn/ngày, tỷ lệ thu gom và xử lý đạt 83%. Ở nông thôn là hơn 30.000 tấn/ngày, tỷ lệ thu gom là 50-60%, có nơi chỉ 20-30%.
Theo các chuyên gia môi trường, xử lý rác thải ở Việt Nam chủ yếu vẫn là công nghệ chôn lấp (80-85%) nhưng chôn lấp hợp vệ sinh chỉ khoảng 15-20%. Hiện, có 20 dự án xử lý rác thành các sản phẩm tái chế nhưng quy mô nhỏ và khó tiêu thụ sản phẩm. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị được xử lý, tái chế là 15%.
Ông Đặng Văn Lợi nêu ví dụ, ngành y tế có hơn 11.600 cơ sở khám chữa bệnh với tổng lượng chất thải rắn phát sinh khoảng 350 tấn/ngày, trong đó có hơn 40 tấn/ngày là chất thải rắn y tế nguy hại. Tuy nhiên, chỉ có 351 bệnh việc có hệ thống xử lý nước thải còn hoạt động tốt, 835 bệnh viện cần phải sửa chữa, nâng cấp hoặc xây mới hệ thống xử lý.
Có 35% bệnh viện có lò đốt chất thải y tế nhưng công suất sử dụng chưa hợp lý và việc xử lý khí thải còn gặp nhiều khó khăn.
Về khí thải công nghiệp, ô nhiễm không khí do khí thải công nghiệp gây ra chủ yếu là bụi, hầu hết vượt giới hạn cho phép. Trong đó, một số nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng vượt tiêu chuẩn từ 20 - 435 lần.
Ưu đãi để phát triển công nghiệp môi trường
Thực tế, công nghệ xử lý chất thải của Việt Nam tự thiết kế và chế tạo hiện nay đã tương đối đủ các loại hình để xử lý chất thải rắn, nước và khí thải. Tuy nhiên, công nghệ tái chế chất thải vẫn lạc hậu, thủ công nên hiệu quả còn thấp. Tình trạng sản xuất thiết bị, công nghệ môi trường còn đơn lẻ, chưa có khả năng chế tạo hàng loạt.
Trong khi đó, nhu cầu đầu tư cho bảo vệ môi trường ở 16 ngành và lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam có thể lên tới hơn 7,6 tỷ USD. Ví dụ như thép là 800 triệu USD, dệt may là 326 triệu USD…
Vì vậy, yêu cầu cấp bách hiện nay là phải phát triển ngành công nghiệp môi trường thành ngành công nghiệp có khả năng cung cấp các công nghệ, thiết bị, dịch vụ, sản phẩm môi trường phục vụ yêu cầu bảo vệ môi trường.
Hiện, có 7 khu xử lý chất thải rắn tại 3 vùng kinh tế trọng điểm đang được xây dựng từ nay đến năm 2020 với số vốn đầu tư khoảng 600 triệu USD.
Đặc biệt, Nhà nước đã có các quy định về ưu đãi, hỗ trợ về đất đai, vốn, miễn giảm thuế, phí đối với hoạt động môi trường; trợ giá, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm từ hoạt động bảo vệ môi trường…
Bên cạnh đó, doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư bảo vệ môi trường, được áp dụng thuế suất 10% trong suốt thời hạn hoạt động đối với phần thu nhập của doanh nghiệp có được từ dự án đầu tư hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn, được miễn thuế 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo, các doanh nghiệp được thành lập mới khác được miễn thuế 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế phải nộp trong 5 năm tiếp theo.
Thu Cúc