Tải ứng dụng:
BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ
Thông tin mới nhất từ Tổng cục Thống kê cho biết, với quyết tâm vừa đẩy lùi dịch bệnh vừa phát triển kinh tế, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành và địa phương tập trung thực hiện các giải pháp đồng bộ, nỗ lực tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, công trình.
Theo đó, tốc độ tăng vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tám và 8 tháng năm 2020 lần lượt tăng 45,4% và tăng 30,4% so với cùng kỳ năm trước, mức cao nhất trong giai đoạn 2016-2020.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 8/2020 ước tính đạt 47,4 nghìn tỷ đồng, tăng 45,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Trung ương quản lý 8,7 nghìn tỷ đồng, tăng 86,7%; vốn địa phương quản lý 38,7 nghìn tỷ đồng, tăng 38,5%.
Tính chung 8 tháng năm 2020, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 250,5 nghìn tỷ đồng, bằng 50,7% kế hoạch năm và tăng 30,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 bằng 50,1% và tăng 5,4%).
Cụ thể: Vốn Trung ương quản lý đạt 41,2 nghìn tỷ đồng, bằng 48,7% kế hoạch năm và tăng 65,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Bộ Giao thông vận tải đạt 10.741 tỷ đồng, bằng 53,5% và tăng 90,8%; Bộ Y tế 2.902 tỷ đồng, bằng 43,5% và tăng 38,5%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2.192 tỷ đồng, bằng 49,3% và tăng 38,1%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 1.210 tỷ đồng, bằng 39,5% và tăng 88,5%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 575 tỷ đồng, bằng 36,4% và tăng 12,6%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 303 tỷ đồng, bằng 41,9% và giảm 12,8%; Bộ Công Thương 210 tỷ đồng, bằng 48,6% và tăng 65,8%; Bộ Xây dựng 157 tỷ đồng, bằng 44,2% và tăng 42,4%; Bộ Khoa học và Công nghệ 113 tỷ đồng, bằng 39,9% và giảm 28,9%; Bộ Thông tin và Truyền thông 56 tỷ đồng, bằng 40,6% và giảm 20,4%.
Vốn địa phương quản lý đạt 209,3 nghìn tỷ đồng, bằng 51,1% kế hoạch năm và tăng 25,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 140,2 nghìn tỷ đồng, bằng 48,7% và tăng 24,4%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 58,3 nghìn tỷ đồng, bằng 55,9% và tăng 26,9%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 10,8 nghìn tỷ đồng, bằng 63,9% và tăng 25,9%.
Vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 8 tháng năm 2020 của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 26.587 tỷ đồng, bằng 58,6% kế hoạch năm và tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 22.279 tỷ đồng, bằng 46,6% và tăng 79,8%; Quảng Ninh 9.453 tỷ đồng, bằng 68% và tăng 58,3%; Bình Dương 7.028 tỷ đồng, bằng 47,1% và tăng 13,6%; Thanh Hóa 6.356 tỷ đồng, bằng 62% và tăng 29,8%; Hải Phòng 5.758 tỷ đồng, bằng 39,9% và tăng 8,9%; Nghệ An 4.993 tỷ đồng, bằng 64,3% và tăng 41,7%; Bà Rịa - Vũng Tàu 4.813 tỷ đồng, bằng 49,6% và tăng 12,6%; Bình Định 4.549 tỷ đồng, bằng 55,9% và tăng 45,6%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/8/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 19,5 tỷ USD, giảm 13,7% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó có 1.797 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 9,7 tỷ USD, giảm 25,3% về số dự án và tăng 6,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 718 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 4,9 tỷ USD, tăng 22,2%; có 4.804 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn đạt 4,9 tỷ USD, giảm 48,2%.
Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 1.137 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 1,8 tỷ USD và 3.667 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị hơn 3,1 tỷ USD.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 8 tháng ước tính đạt 11,4 tỷ USD, giảm 5,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt gần 8,1 tỷ USD, chiếm 71,1% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,7 tỷ USD, chiếm 14,9%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 0,8 tỷ USD, chiếm 7%.
Trong 8 tháng năm 2020, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 4,5 tỷ USD, chiếm 46,1% tổng số vốn đăng ký cấp mới; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt hơn 4 tỷ USD, chiếm 41,5%; các ngành còn lại đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 12,4%.
Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt gần 8 tỷ USD, chiếm 54,7% tổng số vốn; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 3,9 tỷ USD, chiếm 26,6%; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,6 tỷ USD, chiếm 11,3%; các ngành còn lại đạt 1,1 tỷ USD, chiếm 7,4%.
Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hơn 1,3 tỷ USD, chiếm 26,9% tổng vốn; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 24,9%; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 0,7 tỷ USD, chiếm 14,8%; các ngành còn lại đạt 1,7 tỷ USD, chiếm 33,4%.
Trong số 70 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 8 tháng, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 4,6 tỷ USD, chiếm 47,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 1.039,5 triệu USD, chiếm 10,7%; Trung Quốc 1.025,7 triệu USD, chiếm 10,5%; Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 856,1 triệu USD, chiếm 8,8%; Đài Loan 823 triệu USD, chiếm 8,5%; Nhật Bản 442,3 triệu USD, chiếm 4,5%.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 8 tháng có 86 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đầu tư của phía Việt Nam là 218,4 triệu USD; có 25 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm đạt 111,8 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 8 tháng đạt 330,2 triệu USD, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 225,7 triệu USD, chiếm 68,4% tổng vốn đầu tư; dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 39,6 triệu USD, chiếm 12%; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 19,6 triệu USD, chiếm 5,9%...